Phật Thừa Tông Yếu Luận Giảng Giải – Nguyên Định

BÀI 7: Tổng Quan Tiểu Thừa và Đại Thừa Phật Giáo

A. Giới thiệu

Sau 3 tháng đức Phật nhập Niết-bàn, để bảo tồn những lời Phật dạy khỏi bị thất thoát mai một theo thời gian, nên tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) đã triệu tập 500 vị Thánh A La Hán tại hang động Thất diệp (Saptaparni caves), thành phố Rajgir (Vương xá), kinh đô của vương quốc Magadha,  kết tập lại những lời Phật dạy bằng ký ức (khẩu truyền), lúc bấy giờ chỉ trùng tụng 2 tạng kinh (S. Sūtra, P. Sutta) và luật (P. Vinaya). Sau đó, 100 năm ngày đức Phật Niết-bàn, tại thành Tỳ Xá Ly (Vesāli), tôn giả Da Xá đã đính chính lại 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ-kheo Bạt kỳ (Vajji) là lời tự đặt điều ra, không phải từ kim khẩu lời Phật dạy, bên cạnh đó xảy ra sự phân phái Phật giáo chia thành 2 bộ phái gọi là: Trưởng lão bộ (P. Theravāda) và Đại chúng bộ (S. Mahāsāṅghika). Sự phân chia này không phải do mâu thuẫn về tổ chức hay quyền lợi, danh vọng, địa vị như người đời thường nghĩ, mà do sự khác biệt trong quan điểm về tư tưởng giáo lý, giới luật.

B. Nội dung

I. Danh xưng và sự liên hệ giữa 2 trường phái

1. Khái niệm căn bản

Phật Giáo Nguyên khởi (original buddhism, early Buddhism); Phật giáo kinh bộ (Nikaya Buddhism) chỉ các tông phái sử dụng kinh điển Nguyên thủy, giữ nguyên truyền thống, có phần thủ cựu.

Còn gọi là “Phật giáo Nam phương” hay Nam tông (southern Buddhism) để chỉ Phật giáo tại các nước như: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt.

Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna Buddhism); Phật giáo phát triển (developed/ later Buddhism) chỉ đạo Phật cách tân, nhập thế, tiếp biến văn hóa.

Còn gọi là Phật giáo Bắc phương, hay Bắc tông (northern Buddhism) để chỉ cho Phật giáo phát triển tại các nước như: Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng, Việt Nam.

Thỉnh thoảng, danh từ “Phật Giáo Bắc Phương” (northern Buddhism) chỉ Phật giáo Tây Tạng, Mật tông (S. Tantra) hay Kim Cang thừa (vì họ cho rằng: Phật giáo Nguyên thủy, phật giáo đại thừa được xem như là vàng bạc đá quý hột xoàn, là vật quý giá, nhưng còn có cái cứng rắn vững mạnh hơn đó là chất liệu kim cương) “Phật giáo Đông phương” (eastern Buddhism) chỉ Phật giáo tại các nước như: Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam.

Điều mà chúng ta nên biết là thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau đức Phật 500 năm) chưa có danh từ gọi là Đại thừa hay Tiểu thừa gì cả? Mà danh từ Đại thừa và Tiểu thừa xuất hiện đồng thời với kinh điển Đại thừa khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch.

Hīna <=> Mahā, Hīna <= Culla có nghĩa là nhỏ bé về mặt vật lý, về mặt quy mô, kích thước. Hīna có nghĩa là thấp kém là hạ liệt, đáng được coi thường. Tiếng Tây Tạng gọi là: Theg-pa Dman-pa; Anh ngữ gọi là: lower capacity, có khả năng kém hơn, chuyên chở ít hơn. Trong kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana sutta), đức Phật đã thuyết giảng cho 5 người bạn đồng tu thời khổ hạnh: “Này các Tỳ-kheo có 2 cực đoan mà người xg phải nên tránh. 2 đó là gì? sự mê đắm khoái lạc giác quan, điều đó thấp hèn (hina), phàm tục, là cách của những người tầm thường, k đáng làm và k lợi lạc; và sự dấn thân vào việc tự  hành xác bản thân, việc đó chỉ mang lại đau đớn, k đáng làm và k lợi lạc.”

Ở đây kinh điển Pāli đã ghi lại lời đức Phật dạy điều đó là Hīna, tức là thấp hèn, không đáng làm, đáng bị chê trách.

Chúng ta biết, sau khi Hội đồng kết tập kinh điển lần ba, con trai của Vua Asoka, là ngài Mahinda đã mang toàn bộ Tam Tạng Kinh Tipitaka qua Tích Lan, cùng với những luận giảng được trùng tuyên tại Hội đồng kết tập kinh điển lần ba đó. Kinh điển được mang qua Tích Lan vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay, không bị mất mát thất thoát, mai một 1 trang nào. Kinh điển này được ghi chép bằng tiếng Pāli, vốn là ngôn ngữ được dựa trên tiếng Magadhi (Ma-kiệt-đà) mà đức Phật đã chọn dùng để giảng dạy. Vào lúc này vẫn chưa hề có xuất hiện (tư tưởng hay trường phái gì cả) Đại Thừa nào cả. Do đó người học chúng ta không nên nhầm lẫn cái tên “Hīnayāna” (Tiểu thừa) với Theravāda (Trưởng lão bộ), bởi vì hai cái tên này không đồng nghĩa với nhau. Phật giáo Theravāda đã di dời qua Tích Lan vào Thế kỷ thứ III Tr.TL, vào lúc đó vẫn chưa có Đại thừa nào cả – (thì lấy ai mà gọi họ hay bất cứ ai bằng cái tên “Tiểu thừa đó?. Đại Thừa thì chỉ xuất hiện và phát triển sau này, vào khoảng giữa Thế kỷ I Tr.TL và đầu Tây lịch). “Hīnayāna” là tên gọi do những người Đại thừa gọi những trường phái được phát triển ở Ấn-độ và họ không liên quan gì đến hình thức Phật giáo Theravāda ở Tích Lan.

Một trong những lý do đó, nên vào năm 1950, Hội Thân hữu Phật tử Thế giới (World fellowship of Buddhists, viết tắc WFB) họp tại Colombo (Tích Lan) đã nhất trí loại bỏ danh từ Tiểu thừa khi nói đến Nam tông Phật giáo.

2. Liên hệ giữa hai trường phái

Theo lời của Hòa thượng Thích Quảng Độ nói: “Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo, phần cành lá là Đại Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc, nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không còn sức sống; hoặc giả có gốc, có thân cây mà không có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây đứng vững, thì phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống mãnh liệt của toàn bộ cái cây; hơn nữa tàn cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng không gian có đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài mệt mỏi những phút giây êm mát, thoải mái giữa buổi trưa hè oi bức. Cái cây Phật Giáo cũng thế: cả ba phần Căn Bản, Tiểu Thừa, Đại Thừa có hợp lại, có biểu lý và bổ sung cho nhau thì mới là cái cây Phật giáo hoàn toàn.”[1]

Theo đó, cùng quan điểm này, Tiến sĩ Maeda đã phát biểu: “Lời dạy của đức Thích Ca Mâu Ni là hạt giống, lời dạy của Tiểu thừa là cành và lá, lời dạy của Đại thừa là hoa và trái. Một thời gian lâu sau khi các hạt giống đã bị che mất, và khi thời gian đã chín muồi, các trái cây hiện ra.”[2]

Trong hệ Pāli – Nikāya và A-hàm, đức Phật dạy cỗ xe Pháp duy nhất đó là, Pháp thừa (P. Dhammayāna)= Bát Chánh Đạo, trong kinh Tương Ưng Bộ, đức Phật tuyên bố: “Này Ananda, con đường tám chánh nầy là đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự chiến thắng vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si.”[3]

Cũng vậy trong kinh Pháp Hoa nói: “Đức Như-Lai chỉ dùng 1 Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp, không có các thừa hoặc 2 hoặc ba khác.”[4] hay trong kinh Tiểu bộ và Tăng chi bộ thuộc kinh tạng Nguyên thủy, đức Phật cũng dạy rằng: “Như tất cả các đại dương đều có cùng một vị mặn, các giáo pháp của Ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị giải thoát.”

II. Về văn hệ và văn phong

1. Phương thức truyền thừa: Cả hai đều khẩu truyền suốt 400 năm sau Phật nhập diệt. Sau đó được biên tập thành ba tạng kinh điển.

2. Văn hệ: Phật giáo Nguyên thủy sử dụng tiếng Ma-kiệt-đà, về sau sử dụng Pāli. Phật giáo Đại thừa sử dụng phương ngữ miền Trung Ấn, “Sanskrit tạp (Hybrid Sanskrit), gần Sanskrit cổ, ngữ văn quý trọng của Ấn-độ. Không được truyền thống thừa nhận là Buddhavaccana. Được dịch ra Hán cổ và Tạng ngữ.

3. Số lượng Kinh: Phật giáo nguyên thủy có 5 bộ Nikāya, 5 tập Luật[5] và 7 tập Luận.[6] Phật giáo Đại thừa gồm nhiều trường phái, gắn kết với một hay nhiều kinh điển mới, số lượng nhiều hơn, đa dạng, phong phú, đôi lúc mâu thuẫn nhau.

4. Văn phong: Kinh điển Pāli dùng thể văn mô tả, tường thuật, ký sự, nhiều trùng cú, điệp từ. Đơn giản, dễ hiểu, gần gũi đời thường, chặt chẽ, thiết thực, rõ ràng và nhất quán.

Kinh Đại thừa có văn phong phân tích, âm điệu hấp dẫn, dùng các ẩn dụ, lời nói bóng bẩy, đa nghĩa.

Đức Phật giảng kinh Đại thừa cho các hàng Bồ-tát và chư thiên ở hành tinh khác (thế giới khác, ngoài cõi ta bà này còn thế giới khác nữa). Kinh điển cao cấp, dành cho người căn tánh cao, căn cơ cao. Giai đoạn này gọi là thời kỳ Chuyển Pháp Luân lần thứ hai.

III. Về  đức Phật

1. Vai trò của đức Phật

Ðức Phật là bậc toàn tri, toàn giác, có 6 thần thông và chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sự xuất hiện của đức Phật là quý hiếm như hoa ưu đàm (S. Uḍumbara; C. 優曇華). Nhằm biểu thị sự hiếm hoi, khan hiếm, hy hữu, hiếm có, sự quý báu nhất, liên hệ trong các bản kinh như: Kinh Phật “Vô Lượng Thọ”, đã ghi chép rằng loài hoa Ưu Đàm rất hiếm khi xuất hiện. “Này A Nan! Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi nên xuất hiện ở đời, tuyên dương giáo pháp là muốn cứu bạt  quần manh, đem lợi ích chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa ưu đàm hiếm khi xuất hiện, lời hỏi hôm nay của ông lợi ích rất lớn.”

Hoa Ưu Đàm cũng được nhắc đến trong kinh Pháp Hoa: “Như hoa ưu đàm, ai cũng ưa thích, đến như chư thiên, cũng thấy hiếm có, vì lẽ thỉnh thoảng, mới trổ một lần.[7]

Kinh Ðại Bát Niết Bàn là những lời giảng Pháp sau cùng của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi Ngài Niết-bàn có thuyết rằng: “Nầy đại chúng! Phật ra đời rất khó gặp khó thấy như hoa Ưu Đàm.”

Đức Phật Thích-Ca vượt lên trên Thượng đế và thần linh, được tôn xứng với thập hiệu Như Lai.

Đức Phật là bậc Đạo sư, là người chỉ đường hay người dẫn đường, đại lương y (tùy bịnh cho thuốc), pháp vương (vua chánh pháp), điều trị dứt điểm các bệnh khổ đau của chúng sinh, đem lại sự an lạc phúc lợi cho mọi loài, chúng sanh – con người đến với đức Phật, thì Ngài luôn đón tiếp bằng tâm từ bi khả ái.

2. Sử liệu về đức Phật

Phật giáo nguyên thủy: Sanh 624 (15-4); xuất gia lúc 29 tuổi; 35 tuổi thành đạo (15-4); nhập diệt Niết-bàn lúc 80 tuổi (15-4). 45 năm chuyển pháp luân. Cuộc đời thật.

Phật giáo đại thừa: Sanh 624 (8-4); xuất gia lúc 19 tuổi (8-2); 5 năm tầm sư học đạo; 6 năm tu khổ hạnh; thành đạo 30 tuổi (8-12); nhập Niết-bàn lúc 79 tuổi (15-2). 49 năm thuyết pháp độ sanh. Đức Phật là sự thị hiện trong cõi đời này.

3. Thân Phật

Phật giáo nguyên thủy: Sắc thân (S. Rupakāya, thân thể vật lý) bốn đại chịu tác động của vô thường, vẫn sinh, già, bệnh và chết, nhưng không đau khổ theo thời gian. (thân có khổ, nhưng tâm hoàn toàn an lạc).

Phật giáo đại thừa: Có ba thân (S. Trikāya, 三身): Pháp thân (S. Dharmakāya) = thân chánh pháp; báo thân (S. Sambhogakāya, 報身) hay thụ, thọ dụng thân (受用身); “thân của sự thụ hưởng công đức; Ứng thân (S. Nirmāṇakāya; C. 應身,) hay sắc thân.

4. Số lượng và thọ mạng

Phật giáo nguyên thủy: chỉ có duy nhất một đức Phật lịch sử, 80 tuổi. Phật giáo đại thừa: Vô số Phật ở mười phương, thọ mạng dài lâu vô lượng, như trong kinh A-Di-Đà, kinh Pháp Hoa…

IV. Giáo pháp căn bản

1. Giống giáo lý căn bản: Tứ diệu đế, tam pháp ấn, lý duyên khởi, nhân quả nghiệp báo, luân hồi tái sinh. Chủ trương xã hội bình đẳng, công bằng, dân chủ. Tám chánh đạo và tam vô lậu học là con đường đạt được Niết-bàn và giải thoát. Không thừa nhận có nguyên nhân đầu tiên, phủ định duy vật và duy tâm, chủ trương một thế giới quan duyên khởi và nhân sinh quan tổ hợp (uẩn).

2. Đạo đức học

Phật giáo nguyên thủy: năm điều đạo đức (ngũ giới), mười điều thiện (thập thiện), giới sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na-ni, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Làm chủ bốn oai nghi. Xét trên quy chuẩn giới luật.

Phật giáo đại thừa: Ngoài ra, còn có thêm giới Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia (kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, còn gọi là thông giới cả xuất gia và tại gia). Đặt nặng động cơ của tâm ý.

3. Phương thức độ sanh

Phật giáo nguyên thủy: Không thêm một câu, không bớt một chữ, giữ nguyên truyền thống và bản sắc tập tục. Không thể độ người không có duyên và nhân xấu đã đến lúc chín muồi. Giác ngộ tự thân rồi mới dấn thân hóa độ chúng sinh. có nghĩa là tự độ, tự giải thoát cá nhân bản thân trước rồi mới độ tha.

Phật giáo đại thừa: Dùng phương tiện thiện xảo (S. Upaya-kausalya; P. Upāya-kosalla), theo trình độ và căn duyên của người nghe; tiếp biến văn hóa để độ sanh. Không vội chứng Niết-bàn, phát nguyện đồng hành với chúng sinh. Lấy chúng sanh làm pháp tu lợi sanh, độ người trước, độ mình sau.

4. Quả vị giác ngộ (Phala bodhi)

Phật giáo nguyên thủy: Quả A-la-hán là cao nhất, chỉ sau đức Phật khai sáng. Đồng với Thanh Văn, Duyên Giác và Độc giác.

Phật giáo đại thừa: Bồ Tát Thừa (S. Bodhisatva-yana) phân biệt với Thanh Văn Thừa (S. Sravaka-yana) với quả vị A-la-hán (Arahat), không phải quả vị Chánh Đẳng Giác (S. Samma-sambuddho). Thanh văn thừa, Độc giác thừa, và Bồ tát thừa đều quy về Nhất Thừa (Eka-yana).

5. Niết-bàn (S. Nirvāṇa; P. Nibbāna)

Giống nhau: Trạng thái an tịnh hoàn toàn, tận trừ mọi phiền não (S. Kilesa) và đau khổ; hoàn toàn an tịnh (S. Sànta), vi diệu (S. Panita), an lạc (安樂), giải thoát (S. Mokṣa; C. 解脫), vô vi (無爲).

Khác nhau: Phật giáo nguyên thủy: Hữu dư niết-bàn (S. Sopadhiśeṣanirvāṇa; P. Savupadisesanibbāna; C. 有餘涅槃). Vô dư niết-bàn (S. Nirupadhiśeṣanirvāṇa; P. Anupadisesanibbāna; C. 無餘涅槃). Niết bàn là vô ngã.

Phật giáo đại thừa: Vô trụ xứ niết-bàn (S. Apratiṣṭhitanirvāṇa; C. 無住處涅槃) và Trụ xứ niết-bàn (S. Pratiṣṭhitanirvāṇa; C. 住處涅槃). Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh.

C. Kết luận

Qua bài học nầy giúp người học có cái nhìn đại cương, tổng quan về bức tranh toàn diện của cả 2 trường phái Tiểu thừa và Đại thừa Phật giáo. Nếu nói khác là về cách trang trí nội thất bên trong ngôi nhà Phật giáo nói chung; còn nói giống là về cách thức mô hình cùng 1 ngôi nhà, cùng 1 nền móng hay cùng 1 gốc mà thành. Điều đáng quan tâm hơn, là người học chúng ta không nên đem tâm chỉ trích, chê bai bất cứ trường phái nào cả, cái gì cũng phải có trước mới có sau; có gốc thì mới có ngọn. Hãy tỉnh táo, dùng trí mà suy xét quán chiếu vấn đề, không nên để thức tri sai sử dẫn đến hậu quả mang nghiệp phỉ báng Chánh pháp.


Tham khảo & chú thích

[1] Thích Quảng Độ (dịch), Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Nxb Viện Đại Học Vạn Hạnh Việt Nam, các tr. V-VI, 1969. 

[2] Thích Minh Châu (dịch), Đại Thừa và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa, Nxb Tp. HCM, tr. 90, 1999.

[3] Kinh Tương Ưng Bộ. 

[4] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện thứ hai, tr. 65.

[5] 5 tập Luật gồm: 1. Suttavibhaṅga; 2.  Mahāvibhaṅga; 3. Bhikkhunīvibhaṅga; 4. Khandhaka; 5. Parivāra.

[6] 7 tập Luận  gồm: 1. Pháp tập luận (Dhamma-sangani); 2. Phân biệt luận (Vibhanga); 3. Giới luận (Dhàtu-kathà); 4. Nhân thi thiết luận (Puggala-pannanatti); 5. Song luận (Yamaka); 6. Phát thú luận (Patthàra-kathà); 7. Luận sự (Kathà-vatthu)

[7] Thích Trí Quang (dịch), Kinh Pháp Hoa Chính Văn, (tập 1), Nxb Văn Hoá Sài Gòn, 2011, tr. 210.

Phật Thừa Tông Yếu Luận