Bài 10: Thức Tái Sanh
(Tham chiếu: 大正新脩大正藏經 Vol. 32, No. 1670B. 那先比丘經卷中, dòng 30, các tr. 9-10. Bài 2 – Sau khi chết, quyển trung, Kinh Tỳ kheo Na tiên, Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải – Nguyễn Minh Hiển hiệu đính, các tr. 199-208. Bài 13 – Danh thân tái sinh, Cao Hữu Đính soạn dịch, các tr. 67-72. Mục II – Addhānavaggo – Phẩm hành trình, Milindapañhapāli, các tr. 74-79. Bài 21 – Cái gì dẫn dắt đi tái sinh, Kinh Mi Tiên vấn đáp, HT Giới Nghiêm dịch, các tr.155-159. Chapter 2, Rebirth, Bhikkhu Pesala, The Debate of King Milinda, tr. 46).
I. Đại ý:
Luận về tái sinh được đề cập rất nhiều trong văn hệ Pāli, A-hàm và các nguồn tư liệu sách viết[1] rất rõ ràng và đầy đủ, giúp cho người học, hành giả có một cái nhìn chân xác hơn về giáo lý Phật đà, cũng như các tư tưởng liên quan. Bằng cách lý giải thiết thực dễ hiểu, thầy Na tiên đã dẫn dụ các hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày, tưởng chừng như việc này mới diễn ra, dù cách đây hơn 21 thế kỷ về trước. Xoay quanh cuộc luận đàm Phật pháp giữa vua Di-lan-đà và thầy Na tiên trong chủ đề này bàn về: cái gì dẫn dắt chúng sanh đi tái sinh? khi tái sanh, dùng thân cũ hay thân mới? và cái gì còn, cái gì mất của thân tâm cũ, khi thân tâm mới sanh ra?… Với cách ngôn của bậc trí tuệ, thầy Na tiên đã làm sáng tỏ các vấn đề trên.
II. Nội dung
1. Vấn đề tái sinh
a. Chánh văn
Đức vua hỏi:
– Cái gì dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh, thưa đại đức?
– Là danh, sắc, tâu đại vương!
– Nghĩa là danh sắc của con người cũ này sanh trở lại?
– Không phải vậy, tâu đại vương! Chính danh sắc này làm các việc thiện ác; và chính do năng lực của nghiệp thiện ác ấy mà một danh sắc khác kế tục được sanh ra để nhận lãnh quả phước hoặc tội đã tạo tác.
– Nếu danh sắc cũ mà không sanh trở lại, thì đời này làm ác, đời sau đâu có chịu tội báo? Và như thế có nghĩa là mình đã thoát khỏi luân hồi sinh tử sao?
– Không phải vậy, tâu đại vương! Chỉ có người không còn gây nhân thiện ác mới chấm dứt tái sanh, chứ nếu còn gây nhân thiện ác thì sẽ sanh trở lại để thọ nhận quả báo, vòng sinh tử vì thế sẽ tiếp nối mãi không ngừng. Danh sắc cũ và danh sắc mới cũng chính là mình đấy chứ không phải ai khác.
b. Lược giải
Vấn đề tái sinh (S. Punarbhava; P. Punabbhava; T. Tulkus ; E. Reborn), trong ngôn ngữ tiếng Anh gọi là re-born, “re” có nghĩa là trở lại; còn “born” là sanh ra, ra đời, vậy re-born nghĩa là sanh trở lại (tái sinh). Tư tưởng Phật giáo cho rằng, nghiệp (S. Karma; P. Kamma) của một con người sẽ dẫn dắt đến một cuộc sống mới sau khi chết, trong một vòng không bao giờ chấm dứt gọi là luân hồi (S. Saṃsāra). Vòng luân hồi này được xem là khổ (P. Dukkha), không thỏa mãn và đau đớn, phiền thân não tâm. Vòng luân hồi chỉ dừng lại nếu đạt được giải thoát bằng sự giác ngộ và đoạn tận tham, sân, si. Tái sinh là một trong những học thuyết quan trọng của Phật giáo, cùng với nghiệp, Niết-bàn (S. Nirvana) và giải thoát (S. Moksha).
Học thuyết tái sinh trong Phật giáo xác nhận không nhất định phải thành một con người, mà có thể tái sinh vào một trong sáu cõi (gati) đó là: Thiên (deva), A-tu-la (asura), Nhân (manusya), Súc sanh (tiryak), Ngạ quỷ (preta), và Địa ngục (naraka).[2]
Theo truyền thống Phật giáo, sự tái sinh này được quyết định bởi nghiệp lực, với thiện nghiệp (kushala) thì sinh vào cõi tốt lành, và ác nghiệp (akushala) thì bị sinh vào cõi xấu. Trong kinh Địa tạng, chỉ rõ về phương pháp hồi hướng phước lành cho người còn kẻ mất, nhờ đó con người có thể tái sinh vào cõi thiện và tránh tái sinh vào cõi ác.
Theo Phật giáo Nam truyền, một chúng sanh – con người sau khi thân hoại mạng chung thì tái sanh liền tức khắc, gọi là tái sinh tương tục và đây cũng là quan điểm của thầy Na tiên trả lời cho vua Di-lan-đà. Đoạn: “…và chính do năng lực của nghiệp thiện ác ấy mà một danh sắc khác kế tục được sanh ra để nhận lãnh quả phước hoặc tội đã tạo tác.”
Theo Phật giáo Bắc truyền, như Phật giáo Trung hoa, Tây Tạng cho rằng, con người sau khi chết, trong thời gian 49 ngày (tức là 7 x 7 tuần lễ = 49 ngày), thì thần thức con người đó tái sinh nhanh hay chậm, phụ thuộc vào phước báu lành hay nghiệp dữ mà hiện đời người đó tạo ra, có thể sinh vào các cảnh giới (1 trong 6 cảnh giới đã nói trên). Đồng thời, cần nhờ sự giúp đỡ của người thân làm việc phước đức như : bố thí, cúng dường, phóng sanh… để đem công đức đó hồi hướng cho người quá cố, nhưng theo kinh Địa tạng, công đức mà người thân còn sống làm đó, khi hồi hướng cho người quá vãng chỉ hưởng 1 phần 7 công đức mà thôi, nghĩa là trong 7 phần công đức thì người chết chỉ hưởng được 1 phần, 6 phần còn lại sẽ thuộc về người làm công đức đó.
Luận về phương diện văn bản học: Vấn đề tái sanh được nêu lên nhiều lần trong quyển Na tiên Tỳ-kheo. Trong bản Đại chánh, chúng ta thấy vua Di-lan-đà đã nêu vấn đề này tất cả14 lần, còn các bản dịch như: Cao Hữu Đính, gồm 11 lần – các tiểu mục số 6/8/9/10/11/13/14/15/16/17/36; Đoàn Trung Còn: quyển thượng – tiểu mục số 2/10/11/12, quyển trung – tiểu mục số 2/3/4, quyển hạ – tiểu mục số 2. H. T Giới Nghiêm dịch: nêu lên 13 lần – các tiểu mục số 16/17/21/22/23/24/25/26/27/57/74/75/76. Bản dịch Anh ngữ của Bhikkhu Pesala, được nhắc đến 9 lần. Như vậy, các tiểu mục được đề cập mỗi lần với một khía cạnh khác và rải rác khắp quyển kinh. Đó là 1 vài điểm so sánh trong các bản dịch, tuy nhiên con số chênh lệch này cũng không làm ảnh hưởng gì, không giảm phần quan trọng của cuộc luận đàm.
Căn cứ theo lời tuyên bố của đức Phật, khi Ngài giác ngộ, đã trải qua nhiều giai đoạn của sự tỉnh thức, nhớ lại những đời quá khứ. Ngài kể lại kinh nghiệm của sự chứng ngộ ấy rằng: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.”[3]
Như vậy, bằng sự chứng ngộ đức Phật đã thấy rõ được nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng vô số kiếp trải qua nhiều lần tái sinh trong các hoàn cảnh. Đây là 1 điều minh chứng trong nhiều kiếp sống tái sinh của con người. Nhưng nói về tái sinh thì “cái gì dẫn dắt chúng sanh đi tái sinh”? đây chính là thắc mắc nghi vấn lớn của vua Di-lan-đà. Để hóa giải mối hoài nghi đó, thầy Na tiên phúc đáp: “là danh sắc, tâu đại vương”, tức là chỉ cho thân thể và tâm thức (ngũ uẩn) đi tái sinh, chỗ này thầy Na tiên trả lời một cách rất ngắn ngọn, dễ gây hiểu lầm ngộ nhận vấn đề. Cho nên, vua hỏi lại thầy Na tiên: “nghĩa là danh sắc của con người cũ này sanh trở lại?” Chỗ này khiến thầy Na tiên phải giải thích rõ thêm lần nữa, đó là: “Không phải vậy, tâu đại vương! Chính danh sắc này làm các việc thiện ác; và chính do năng lực của nghiệp thiện ác ấy mà một danh sắc khác kế tục được sanh ra để nhận lãnh quả phước hoặc tội đã tạo tác.”
Lời giải thích này nói về tính tương tục của tâm thức, theo quan điểm Phật giáo, luận cứ về xác nhận có tái sinh là dựa trên một hiểu biết sâu xa về tâm tương tục. Vậy, tâm thức từ đâu đến? Nó không thể không từ đâu mà khởi lên. Mỗi sát na tâm không thể khởi nếu không có sát na tâm đi trước nó. Điều này khi chúng ta quan sát trên biển, ví như, nếu không có con sóng trước thì con sóng sau cũng không, bởi vì có con sóng trước nên có con sóng sau nối tiếp. Cũng vậy, trong tâm thức của chúng ta khi niệm sau sanh thì niệm trước diệt hay niệm này sanh ra thì niệm kia diệt mất, chúng tạo thành niệm niệm tương tục triển chuyển tiếp nối nhau mãi không dừng, vẽ nên một vòng tròn khép kín (12 nhân duyên).
Xoay quanh nghiệp thiện và nghiệp ác, nếu như trong đời hiện tại này, 1 người làm việc phước thiện thông qua sự bố thố, cúng dường, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, tạo các điều kiện phương tiện thuận lợi, xây cầu đường, từ thiện v.v… hay làm điều bất thiện (ngược lại việc làm thiện) thì gieo 1 cái nhân, 1 dấu ấn, để rồi trong kiếp lai sinh đương thể đó thọ nhận kết quả tương ứng theo nghiệp nhân đã tạo. Đây được xem là tính chất của nhân quả tương tục.
Trong cách trả lời của thầy Na tiên, danh sắc đời này làm nhân để đời sau danh sắc khác nhận quả, đã làm cho vua có điều chưa hiểu rõ lời phúc đáp của vấn đề, đã khiến cho vua Milinda có 1 ý nghĩ quay ngược lại tình thế trong vấn ngôn: “Nếu danh sắc cũ mà không sanh trở lại, thì đời này làm ác, đời sau đâu có chịu tội báo? Và như thế có nghĩa là mình đã thoát khỏi luân hồi sinh tử sao?” Câu hỏi trên cho chúng ta thấy, nếu thầy Na tiên bảo rằng: danh sắc (thân-tâm) trong đời hiện tại này làm nhân, rồi sau khi qua đời, thì đời kế tiếp tái sinh trở lại vào cảnh giàu sang hay nghèo hèn cơ cực… là tất cả đều phụ thuộc vào tác nhân mà đương thể đã gây tạo trước đó, tức là xoay chuyển trong vòng luân hồi, 1 trong 6 nẻo.
Vậy thì, ở đây thử đặt vấn đề, nếu danh sắc cũ mà không sanh trở lại, thì đời này làm ác, đời sau đâu có chịu tội báo? Bởi vì danh sắc cũ còn tái sinh nữa đâu mà chịu. Điều này cũng đồng nghĩa là đương thể đó đã thoát khỏi luân hồi sinh tử rồi? và đây cũng là quan điểm lập ngôn của vua Di-lan-đà nêu ra.
Để giải mở những hoài nghi của vua Di-lan-đà, thầy Na tiên đã phân tích cặn kẽ rõ ràng về hai luận điểm: thứ nhất, thế nào gọi là chấm dứt đoạn tận sự tái sinh? thứ hai, nguyên do gì mà còn phải tái sinh?
Đoạn trả lời của thầy Na tiên cho vua Di-lan-đà về hai luận điểm trên: “Không phải vậy, tâu đại vương! Chỉ có người không còn gây nhân thiện ác mới chấm dứt tái sanh, chứ nếu còn gây nhân thiện ác thì sẽ sanh trở lại để thọ nhận quả báo, vòng sinh tử vì thế sẽ tiếp nối mãi không ngừng. Danh sắc cũ và danh sắc mới cũng chính là mình đấy chứ không phải ai khác.”
Lần lượt chúng ta hiểu về 2 luận điểm này, sở dĩ con người tái sinh, nghĩa là còn triển chuyển vào 1 trong 6 nẻo luân hồi, là do lòng tham ái (P. Taṇhā) và chấp thủ (P. Upādāna), sự quyến luyến, bám víu vào 1 cái gì đó mà trong đời chưa thực hiện thỏa nguyện được, nhưng đến giờ phút gọi là sanh ly tử biệt, khi trút hơi thở cuối cùng, cũng có nghĩa sự sống đến đây tạm thời khép lại, thì lúc này phần thức (tâm) là đầu mối dẫn dắt để tái sinh tiếp tục 1 đời sống mới khác. Nói về tham ái thì có 3 loại, đó là dục ái (P. Kama tanha), hữu ái (P. Bhava tanha) và vô hữu ái (P. Vibhava tanha). Ba loại tham ái này chính là nguồn gốc của tái sinh. Thật ra, tham ái chính là tái sinh. Đối với những chúng sinh, con người chưa giác ngộ, nghĩa là những người không tỉnh thức, không hiểu sự thật và không chánh niệm thì tiến trình tái sinh sẽ liên tục tiếp diễn. Nó tiếp tục diễn ra trong thế giới của cảm giác, cảnh giới của những khoái lạc thuộc về giác quan con người.
Trong 12 nhân duyên (12 mắc xích sự sống) 3 chi phần ái, thủ, hữu là nhân ở hiện tại, và quả ở vị lai là sanh, lão tử. Nói rõ hơn 12 mắc xích sự sống, được chia làm 3 thời đó là, thời quá khứ, thời hiện tại và thời tương lai, chúng được vận hành theo hai chiều, chiều thuận và chiều nghịch hay chiều thuận và hoàn diệt.
* Theo chiều thuận, 12 mắc xích sự sống đc hiểu
Thời quá-khứ: (1) Vô-minh duyên Hành; (2) Hành duyên Thức => 2 chi đầu thuộc quá khứ.
Thời hiện-tại: (3) Thức duyên Danh-Sắc. (4) Danh-Sắc duyên Lục-nhập; (5) Lục-nhập duyên Xúc; (6) Xúc duyên Thọ; (7) Thọ duyên Ái; (8) Ái duyên Thủ; (9) Thủ duyên Hữu => tám chi thuộc hiện tại.
Thời vị-lai: (10) Hữu duyên Sanh; (11) Sanh duyên Lão-tử; (12) Lão-tử duyên Vô-minh, khép kín vòng tròn của Luân-hồi lại, để cứ tiếp tục quay chuyển mãi như thế.
* Chiều hoàn diệt: nhằm phá vỡ vòng Luân hồi, chẳng còn phải tái sanh nữa: (1) hễ Vô minh diệt, thì Hành diệt, (2) hễ Hành diệt, thì Thức diệt; (3) hễ Thức diệt, thì Danh-Sắc diệt; (4) hễ Danh-Sắc diệt, thì Lục nhập diệt; (5) hễ Lục nhập diệt, thì Xúc diệt; (6) hễ Xúc diệt, thì Thọ diệt; (7) hễ Thọ diệt, thì Ái diệt; (8) hễ Ái diệt, thì Thủ diệt; (9) hễ Thủ diệt, thì Hữu diệt; (10) hễ Hữu diệt, thì Sanh diệt; (11) hễ Sanh diệt thì Lão-tử diệt; (12) hễ Lão-tử diệt, thì Vô-minh diệt.
Vòng luân hồi tựa như sợi dây xích có mười hai khoen, mỗi khoen là một nhân duyên; hễ bẻ gãy được một khoen, vòng luân hồi liền bị phá vỡ và chẳng lưu chuyển được nữa (tức là hành giả đạt đến quả vị vô sanh, không còn bị chi phối của luân hồi sanh tử nữa). 12 mắc xích sự sống được hiểu theo ba đời hai tầng nhân quả gọi là tam thế lưỡng trùng nhân quả như sau:
Cũng theo giáo lý Duyên khởi, chúng ta cần phải hiểu rằng, trong thực tại không có cái gì gọi là 1 con người hay 1 thực thể thường hằng nào cả, mà chúng do các duyên, uẩn hợp lại cái gọi là con người hay 1 đương thể nào đó, thường gọi “giả chúng duyên nhi cộng thành”. Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá trình danh sắc luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tục và liên tục như vậy. Cái chết là sự diệt của thức cuối cùng và cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc, tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh 1 thức mới, gọi là Thức tái sinh (P. Patisandhi-viññāna; E. Rebirth-consciousness) cùng với danh sắc mới. Đây là lập luận của thầy Na tiên “Danh sắc cũ và danh sắc mới cũng chính là mình đấy chứ không phải ai khác.”
Hay nói khác, sự khởi sinh Thức tái sinh là do duyên hay sự xúc tiến của nghiệp cuối cùng khi chết. Nghĩa là, chính nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh. Nếu đương thể trong hiện đời tạo nhiều nghiệp lành – nhân thiện thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống sung túc an lành hạnh phúc, được người hầu kẻ hạ, tiền hô hậu ủng, khi đi thì được người đón kẻ đưa, dù lọng che rợp mát cả một vùng trời; còn khi hiện đời đương thể đó không biết tạo duyên lành – nhân tốt, nghĩa là đi ngược lại với cuộc sống đạo lý từ bi, sống bo bo chỉ biết về cá nhân riêng mình, của cải làm ra không dám bố thí giúp người, cứu vật, ngay thậm chí cho một con vật ăn chẳng đáng là bao mà cũng không dám, sợ hết của, tiếc nuối, thì thử hỏi người này tương lai như thế nào? Cho nên, người gieo nhân bất thiện thì sự tái sinh sẽ diễn ra trong 1 cuộc sống ê chê, khổ lụy.
Điều này chính là ý nghĩa mà đức Phật nói: “Tất cả chúng sanh được sanh ra từ chính nghiệp của mình.”
Trên là giải thích về nguyên do gì mà còn phải tái sinh?
Bây giờ chúng ta y theo lời của thầy Na tiên để thấy được như thế nào gọi là chấm dứt đoạn tận sự tái sinh?
Trong một câu trả lời khác thầy Na tiên đáp: “Ai tự biết mình không còn ân ái, không còn tham dục, không có dụng tâm làm điều dữ, người đó tự biết chắc không còn tái sinh trên cõi đời này nữa.”[4] Như vậy, đối với 1 người không còn tái sinh nữa, nghĩa là người đó đã đoạn tận, chấm dứt, xa lìa vô minh và tham ái, làm chủ được vòng tròn sự sống luân hồi, điều này ví như 1 người vô tình (do thiếu hiểu biết/ vô minh) bị rơi xuống hầm phẩn, nhơ nhớp, xú uế, nhưng may mắn thay, được người khác (người trí) cứu vớt lên tắm rửa, trang phục đẹp đẽ thơm tho, rồi bảo người đó – anh hãy nhảy xuống hầm phẩn thêm lần nữa đi, thì thử hỏi có dám nhảy hay không? tức nhiên là không, không bao giờ ngu dại gì mà nhảy thêm lần hai. Điều ấy ngụ ý rằng, người này đi từ bóng tối ra chỗ sáng, thoát ra từ cõi phàm phu ngu muội lên ngồi ghế Thánh vị A-la-hán; và khi còn là 1 cậu bé nhỏ tập viết chữ, đến khi lớn lên viết thuần thục rành rọt chữ nghĩa rồi, thì cứ như thế viết thôi, không còn suy nghĩ đắn đo đánh vần viết từng nét chữ như khi còn mới tập viết nữa, không cần suy nghĩ mà chữ viết vẫn đều đặn đúng nghĩa, tức là người này làm chủ được khả năng của mình. Cũng vậy, trong con đường tu tập giải thoát, đối với 1 bậc Thánh giả A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc rồi, thì không hà cớ gì còn bị tái sinh nữa, bởi vì: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.”[5] Cùng với ý nghĩa đó, trong suốt 7 tuần lễ, Bồ-tát Tất-đạt-đa đã tư duy Thiền định bên cội Bồ-đề, đến thời khắc giác ngộ, đức Phật đã tuyên ngôn bằng bài ca Khải hoàn, được xưng tụng trong kinh Pháp cú:
“Lang thang bao kiếp sống,
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay phải tái sanh!”
“Ôi! Người làm nhà kia!
Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa.
Đòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tạn.
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.” [6]
Tuy nhiên, vấn đề tái sinh, chúng ta phải hiểu, chớ nên ngộ nhận đáng tiếc hay đánh đồng các quan điểm, đó là đối với Bồ-tát vào đời bằng sự phát tâm lành, hạnh nguyện cứu độ chúng sanh thoát kiếp mê lầm, gọi là hạnh nguyện độ sanh hay nguyện lực. Như hạnh nguyện hóa thân của Bồ-tát Quán thế âm,[7] lời thệ nguyện của Bồ-tát Địa tạng “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề”. Nghĩa là: Địa ngục chưa trống rỗng thệ không thành Phật, chúng sinh độ hết mới chứng Bồ đề và đại phát nguyện ngôn của tôn giả A-nan: “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhất chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn.”[8] Nghĩa là: Trong đời ác ngũ trược con nguyện vào trước, nếu một chúng sanh chưa thành Phật, quyết không nơi đó tự mình chứng Niết-bàn; còn chúng sanh sở dĩ có mặt trong cuộc đời này là do nghiệp dẫn dắt chi phối, gọi là nghiệp lực chiêu cảm.
Trong ngữ cảnh cuộc luận đạo trên, danh sắc cũ và danh sắc mới được ví như ngọn đèn canh đầu và canh cuối là chỉ cho 1 ngọn đèn chứ không phải đèn nào khác, hiện tượng tái sinh cũng giống như vậy, khi hiện tượng này khởi lên và hiện tượng kia chấm dứt, hai cái đồng thời. Bởi thế tâm đầu tiên khởi lên trong đời sống mới không phải một cũng không phải khác với tâm cuối cùng trong đời trước. Ý nghĩa này được thầy Na tiên dẫn một loạt năm thí dụ cụ thể để chứng minh một cách gián tiếp: căn bản của việc tái sanh, chính là vì thân tâm (danh sắc) đời này làm các điều thiện ác, cho nên phải tái sanh trở lại. Năm thí dụ đó là: (1) ví như kẻ trộm xoài; (2) đốt lửa sưởi ấm; (3) đốt đuốc ăn cơm; (4) nạp lễ vật cưới vợ; (5) sữa chua.
Ngang đây, luận về vấn đề tái sinh trong Phật giáo là 1 phạm trù rất rộng, tuy nhiên theo tư tưởng chủ đạo trong kinh Na tiên giữa người hỏi vua Di-lan-đà) và người trả lời thầy Na tiên, cũng đủ làm sáng tỏ giải mở những hoài nghi uẩn khúc trong tâm.
Bên cạnh đó, có 1 vài điều đối với người học cũng nên thận trọng và cân nhắc đó là: (a) không có 1 linh hồn (ngã) nào rời khỏi thể xác và chui vào thể xác mới. Bởi vì sao? Vì nếu tin hay cho rằng có sự di chuyển linh hồn vào thân xác khác, thì khác nào linh hồn đó bất biến bất tử hay sao? Quan điểm sai lầm này gọi là chấp thường. (b) khi những hành động tạo nghiệp là khởi nguồn từ vô minh và tham ái mà tạo ra, chúng sanh chưa đoạn trừ những lậu hoặc phiễn não nhiễm ô này sẽ tiếp tục tích lũy nghiệp hay mang nghiệp gọi là nghiệp hữu (P. Kamma-bhava)[9] tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết. Nếu k hiểu rõ điều này thì dễ lạc vào theo kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn hay k còn gì nữa sau khi chết, mà các nhà duy vật hiện đại đã mắc phải, quan điểm sai lầm này gọi là chấp đoạn.
2. Những quan điểm tái sinh
a. Tái sinh xảy ra như thế nào?
Có hai cách mà ở đó người ta có thể tái sinh sau khi chết: (a) tái sinh dưới sự tác động của nghiệp và những cảm xúc tiêu cực; (b) tái sinh ngang qua năng lực từ bi và thệ nguyện. Về nghĩa thứ nhất, do vì vô minh và tham ái, nghiệp tích cực và tiêu cực được tạo tác và những dấu vết của chúng lưu giữ trong thức (A-lại-da thức). Những thứ này được kích hoạt lại thông qua tham ái và chấp thủ, thúc đẩy triển chuyển ta vào đời sống kế tiếp. Chúng ta theo đó tái sinh không chủ tâm vào những cảnh giới thấp hoặc cao (1 trong 6 nẻo luân hồi). Đây là cách những chúng sanh thông thường trôi lăn không ngừng ngang qua sự hiện hữu giống như sự xoay vần của một bánh xe. Cho dù ở trong những tình cảnh như vậy, người thông thường vẫn có thể tinh tấn dấn thân với một khát vọng tích cực hành thiện trong đời sống hàng ngày của họ. Họ tự làm quen với đức hạnh mà vào lúc chết nó có thể đem lại phương tiện cho họ có sự tái sinh vào cảnh giới hiện hữu cao hơn. Trong khi đó, những bậc Bồ-tát, những người đã đạt đạo, không còn tái sinh qua hành nghiệp và những cảm xúc tiêu cực của họ, mà do sức mạnh của từ bi đối với chúng sanh và được đặt cơ sở trên thệ nguyện làm lợi ích cho tha nhân. Họ có thể chọn nơi chốn và thời gian tái sinh cũng như cha mẹ tương lai của họ. Một sự tái sinh như vậy, mà nó cốt yếu vì lợi ích của kẻ khác, là tái sinh bằng năng lực từ bi và thệ nguyện. (như đã trình bình bày về thệ nguyện của chư Bồ-tát trong phần trên).
b. Theo Phật giáo Tây Tạng
Hầu hết người Tây Tạng đã tin vào đời sống quá khứ và tương lai, trong các tông phái lớn Phật giáo Tây Tạng như: Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa và Gelugpa đã thừa nhận truyền thống tái sinh này gọi là “tulkus”, được bắt đầu từ thế kỷ XIII và tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy đắc đạo viên tịch, vị ấy có thể để lại những chỉ dẫn rõ ràng về nơi chốn sẽ tái sinh. Có nghĩa là khi vị Lạt-ma thứ nhất viên tịch, Ngài phát nguyện sau khi xả bỏ báo thân này sẽ tiếp tục tái sinh để hoàn thành sứ mệnh trong kiếp lai sinh. Trong lúc tẫn liệm (nhập kim quan) các đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma đã sắp xếp những đồ dùng thường nhật của Ngài và an trí chôn cất cùng với thầy của mình. Hai năm sau đó, họ bắt đầu tìm kiếm nơi tái sinh của vị Đạt-lai Lạt-ma được xác định bởi một hài nhi khoảng hai tuổi ở vùng Tsang,[10] người từ khi vừa bập bẹ biết nói đã yêu cầu cha mẹ gọi mình bằng cái tên của Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất. Hài nhi đó chỉ ra những món đồ của Đạt-lai Lạt-ma đời trước trong số các món đồ được trộn lẫn (xâu chuỗi hoặc bất kỳ một di vật nào đó). Đây là một phương pháp đặc thù trong Phật giáo Tây Tạng, khi vị Lạt-ma chọn cách thức nhập thể tái sinh.
Mục đích của truyền thống này là bảo đảm ký ức tuệ giác của những bậc thầy đã chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị tái sinh là trong quá trình huấn luyện Bản lai diện mục (Phật tánh, chơn như, viên giác tánh, như lai tàng tánh) và đấy là dấu hiệu chứng tỏ “thứ thiệt”. Chẳng hạn đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV được tôn kính bởi tất cả Phật tử như là nhập thể của Bồ-tát Quán thế âm, vị Bồ-tát của lòng bi mẫn bao la, thừa nhận Ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi còn rất nhỏ, những khía cạnh thâm áo của giáo lý Phật đà mà người ta cần phải nhiều năm mới hiểu được. [11]
Nuôi dưỡng những vị tái sinh cần sự cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu, cha mẹ được chỉ dẫn phải đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sự huấn luyện những vị tái sanh rất nghiêm túc kỹ lưỡng hơn huấn luyện tu sĩ thường, vì những triển vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy. Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV đã nói: “Chuyện thông thường là những trẻ tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ còn có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.”
c. Theo Ấn-độ giáo
Thuyết tái sinh theo Ấn-độ giáo là dựa trên nền tảng linh hồn tồn tại (S. Ātman, attā), coi linh hồn là bản chất vĩnh cửu thường hằng bất biến của một sinh vật, nó không thể bị phá hủy và cũng không được tạo ra, trong các truyền thống hữu thần cũng như phi hữu thần, linh hồn được khẳng định là đồng nhất với Brahman (đại ngã), là tối thượng, có nghĩa Ātman hòa đồng với brahman (tiểu ngã hòa nhập cùng đại ngã). Người Ấn giáo còn tin rằng, khi linh hồn cái chết rời khỏi cơ thể cũ và đi vào một cơ thể mới, và một sự tái sinh mới được diễn ra, cứ như thế quá trình tương tự lặp đi lặp lại.
d. Các tôn giáo phương Tây
Người phương Tây sẽ ngạc nhiên khi nghe về hai chữ “tái sinh”, mà thay vào đó gọi là “sinh lại”, sinh lại với tái sinh có khác gì đâu? bằng cách tiếp cận về sau họ mới sử dụng cụm từ “tái sinh”. Đối với người Công giáo (Thiên chúa giáo) cho rằng, nhờ vào 3 trong 7 bí tích,[12] đó là bí tích rửa tội, thêm sức và thánh thể, được sinh ra một cách thiêng liêng hay “được tái sinh”. Chính nhờ bí tích rửa tội mà tín hữu đó trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, đó chính là ý nghĩa của việc “được tái sinh”. Trong lúc người Công giáo tin tưởng, khi một người không cần ý thức việc được tái sinh thì điều đó vẫn diễn ra như thường (như trường hợp rửa tội cho 1 hài nhi). Kế đến là bí tích thêm sức được nhận lãnh khi lớn lên, có nghĩa là gắn bó một cách hoàn hảo hơn với Giáo hội và chấp nhận đức Giêsu Kitô như là Chúa và là Đấng cứu rỗi, và họ tin tưởng hơn nhờ máu thánh đức Kitô và quà tặng của Chúa Thánh Thần nên được cứu rỗi.
III. Kết luận
Kinh thành Sagala cách đây hơn 21 thế kỷ về trước, đã vang rền tiếng trống pháp trong cuộc đàm thoại giữa vua Di-lan-đà và thầy Na tiên, xoay quanh chủ đề lần này bàn về con người sau khi chết – cái gì dẫn dắt đi tái sinh? Tưởng không cần phải lặp lại, ngang đây chúng ta nên hiểu rằng: danh thân con người hiện hữu đời này là nghiệp quả của những gì thiện hay bất thiện mà nghiệp nhân quá khứ đã tạo nên, và trong đời sống hiện tại này chúng ta đang gieo nhân (lành hay bất thiện) gì, để trong tương lai sẽ gặt hái kết quả tương thích đó, như lời đức Phật dạy: “Hiện tại ta là những gì trong quá khứ ta đã từng là, và tương lai ta sẽ là gì tùy thuộc vào hiện tại ta làm gì.” Ngài Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) cũng nói: “Muốn biết đời quá khứ, hãy nhìn tình trạng hiện tại của bạn; muốn biết đời vị lai, hãy nhìn những hành động hiện tại.” Cho nên, con người sau khi chết, phần sắc (thân) bị phân huỷ thành chất mới, cùng lúc phần danh (thức) sẽ tiếp tục hoạt động hoặc chuyển hoá thành dạng năng lượng khác, đúng như định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh: “Năng lượng không tự nhiên sinh ra mà cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác hoặc truyền từ vật này sang vật khác mà thôi.” Mong rằng người học chúng ta cần nên suy ngẫm vấn đề này.
Tham khảo & chú thích
[1] Xem thêm Trung Bộ Kinh, 56-Kinh Ưu-ba-ly; 57-Kinh Hạnh con chó; 136-Ðại kinh Nghiệp phân biệt. Tương Ưng Bộ Kinh, 36, 21-Sìvaka; 42, 8-Vỏ ốc. “The Buddhist Doctrine of Kamma and Rebirth” (Học thuyết Phật giáo về Nghiệp và Tái sinh), tác giả Đại Trưởng lão Narada Maha Thera. Chết và tái sinh, Thích Nguyên Tạng (soạn dịch). Tạng thư sống chết, Thích Nữ Trí Hải (dịch).
[2] Xem Trung Bộ Kinh, 130-Kinh Thiên sứ (Devadùta sutta).
[3] Trung Bộ Kinh,36 – Ðại kinh Saccaka (Mahàsaccaka sutta).
[4] Cao Hữu Đính (soạn dịch), 9 – Tự biết hết tái sanh, tr. 56.
[5] Trung Bộ Kinh, 112 – Kinh Sáu Thanh tịnh (Chabbisodhana sutta).
[6] Kinh Pháp Cú, kệ 153, 154.
[7] Xem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thứ 25.
[8] Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
[9] Nghiệp hữu, “Hữu” là 1 trong 12 nhân duyên, Thủ duyên Hữu là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới. Hữu có nghĩa là do tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn như hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu. Đó là yếu tố làm điều kiện hay nguyên nhân gây ra tái sanh về sau.
[10] Tsang là một trong ba tỉnh truyền thống của Tây Tạng, hai tỉnh kia là Amdo và Kham.
[11] Xem thêm http://chuamaisonvinhan.org/nhung-cong-hien-vi-dai-cua-chu-ton-duc-lat-ma-gelugpa-doi-voi-su-phat-trien-phat-giao-tay-tang/
[12] 7 bí tích gồm: bí tích rửa tội; bí tích thanh thể; bí tích thêm sức; bí tích hoà giải; bí tích sức dầu bệnh nhân; bí tích truyền chức thánh; bí tích hôn phối.