I. Dẫn nhập
Trước nhất cho phép chúng tôi có vài lời nhận định liên quan trực tiếp đến vấn đề hoằng pháp thời Phật còn tại thế và hoằng pháp thời hiện đại, trong xu thế đất nước đang trên đà phát triển và hội nhập quốc tế. Giáo hội ngày càng lớn mạnh, nhiều ban ngành ra sức phấn đấu vươn lên hầu nắm bắt và áp dụng có chọn lọc, các công nghệ truyền thông, kỷ thuật số và những phát minh khoa học ứng dụng trong tất cả mọi phương diện sinh hoạt của xã hội. Sau đó chúng tôi xin đề xuất hai ý kiến mang tính tất yếu trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp.
II. Nội dung
Nói đến hoằng pháp người ta thường nhắc đến phương ngôn cổ đức đã đề ra: “Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh nhi bản hoài”. Đã là bản hoài và gia vụ thì tất nhiên chúng ta là những người con Phật, Tăng Ni và Phật tử nói chung đều có bổn phận Hoằng pháp, chỉ khác nhau là trực tiếp hay gián tiếp mà thôi. Nhìn về quá khứ, Đức Như Lai sau khi thành đạo Ngài đã đến Lộc Uyển và tại đây lần đầu tiên Ngài đã “Tam chuyển Tứ Đế pháp luân.” Một giáo lý căn bản của Tam Thừa Thánh Quả, đồng thời giáo pháp này cũng là nền tảng của Nhơn Thiên thừa và Tam Hiền Thập Thánh nói chung. Xin lưu ý Tứ Đế có 4 loại: sanh diệt tứ đế, vô sanh tứ đế, vô lượng tứ đế và vô tác tứ đế. [1] Đặc biệt thời giáo này đã xác lập Tam Bảo ba ngôi Phật, Pháp, Tăng. Nghĩa là chính thức khẳng định đạo Phật đang hiện hữu trên cuộc đời. Sau khi năm vị trong nhóm Kiều-trần-như (Koṇḍañña) đã chứng đạo quả A-la-hán (Arahant), bấy giờ đức Như Lai mới đề cập đến vấn đề hoằng pháp, truyền trao giáo pháp mà Ngài đã giác ngộ và giải thoát cho tất cả mọi người, Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.” [2]Có thể nói đây chính là vấn đề nền tảng cho công cuộc hoằng pháp của Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay. Nói một cách nghiêm túc là các Ngài đã chứng đắc đạo quả, sau đó mới đem những gì tự thân đã chứng ngộ truyền trao cho chúng sanh. Chính vì thế, sau mỗi lần thuyết giảng, thính chúng đều chứng đắc quả vị, tối thiểu là pháp nhãn tịnh, [3] tương đương kiến đạo vị. Nói như thế không phải chúng tôi cố ý đòi hỏi giảng sư trước khi truyền trao chánh pháp phải chứng đắc đạo quả như các vị Thánh Tăng mà là để chúng ta nhìn lại quá trình tu học của chính mình, phải kiên quyết và chủ động nhìn nhận một số khuyết điểm tồn tại trong từng cá nhân và tổ chức một cách thâm căn cố đế khó có thể khắc phục. Sau đó quyết tâm phấn đấu mong có một đức tính ưu việt, từ lý thuyết đến thực hành, từ lời nói đến việc làm phải đi đôi với nhau, ngôn hành hợp nhất, hay hành giải tương ưng. Hãy nói những gì người ta cần, không phải trình bày những gì mình hiểu biết, nhất là người thực hiện công việc hoằng pháp phải có một thời gian nhất định trải nghiệm và quán chiếu tâm linh, bởi Phật giáo chủ trương thực tiễn tu tập, nhờ đó mà sự giác ngộ và giải thoát thế gian mới có thể thành tựu ngay trong một đời này. Đó cũng chính là bản hoài và gia vụ của những người được mệnh danh là con Phật (Phật tử).
Truyền thống Phật giáo cho chúng ta thấy những người tu sĩ, trước nhất và trên hết là phải am tường một cách triệt để về giáo nghĩa Tam Vô Lậu Học, mà đứng đầu là giới học. Trong tất cả học giới thì phạm hạnh [4] là trên hết. Nếu tam học không trang nghiêm và phạm hạnh không thanh tịnh thì hãy khoan nói đến vấn đề hoằng pháp. Bởi vì, tham ái là vô minh trụ địa, một trong ngũ trụ địa, [5] thường gọi là căn bản vô minh của tất cả mọi vấn đề, chính nó là nguồn gốc của sanh tử luân hồi trong tam giới “tam giới sanh tử, dục vi đệ nhất”. Một khi những vấn đề trên được khắc phục một cách tương đối thì sự hiện diện của một giảng sư ở bất cứ nơi nào dù chưa thuyết giảng giáo pháp cũng có thể đem lại lợi ích tâm linh cho thính chúng và mọi người. Bởi vì, thuyết pháp được thực hiện qua hai hình thức khẩu giáo và thân giáo, trong đó thân giáo thường đưa đến những kết quả bất ngờ được gọi là “hoát nhiên đại ngộ”. Cho nên, thân giáo được xem là một biểu tượng mẫu mực gây ấn tượng sâu đậm để cảm hóa tha nhân, là bài pháp vô ngôn nhằm chuyển hóa biết bao con người quay về bến giác. Tự thân của người mang sứ mệnh hoằng pháp phải luôn tu dưỡng bản thân, hoàn chỉnh nhân cách của mình để làm thước đo mô phạm cho mọi người xung quanh. Nếu như không có một đời sống mẫu mực thì không thể tạo cho đồ chúng niềm tin tưởng và khiến họ thực hành theo những gì mình hướng dẫn, con đường giáo hóa sẽ không mang lại kết quả gì.
Ngày nay Giáo hội chúng ta đang đối diện với nhiều lãnh vực xã hội, đòi hỏi người tu sĩ nhất là giảng sư phải hội đủ những kiến thức thời đại, tiếp cận những phát minh khoa học truyền thông. Chính vì sớm nhận ra điều này nên chư Tôn Đức thường buâng khuâng và nóng lòng yêu cầu một vị giảng sư phải hội đủ bao nhiêu điều kiện từ ngoại hình, âm thanh, sắc tướng, bằng cấp tác phong đĩnh đạt uy nghi.v.v… mà quên đi một yếu tố căn bản đó là tuổi tác. Bởi vì tuổi tác nói lên sự kinh nghiệm tu hành và giảng dạy của một giảng sư đã được tôi luyện dày dặn, chịu đựng mọi thử thách tài sắc danh lợi. Nếu như chỉ có kiến thức và sự hy sinh không thôi, chừng đó cũng chưa đủ để tác thành một giảng sư lý tưởng. Hơn nữa, chúng ta hãy bình tâm nhìn lại tấm gương Ngộ Đạt Quốc Sư (811-883 S.TL), một bậc cao Tăng đời Đường. Từ đó mới có thể phần nào khắc phục mọi vọng niệm phân biệt chấp thủ ngã – nhơn, bấy giờ mới nói đến vấn đề truyền trao giáo pháp, lợi lạc quần sinh.
Hơn thế nữa, cuộc đời của chúng ta quá hạn chế về thời gian. Không phải vô cớ mà Đức Phật đã dạy: “Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc. Ngày nay dù còn, khó bảo đảm được ngày mai…” [6] hoặc như các Tổ Đức đã dạy: “Như thiểu thủy ngư” hay “như cứu đầu nhiên…”. Người xưa đã nói: “Công danh cái thế vô phi đại mộng nhất trường, phú quý kinh nhơn bất miễn vô thường nhị tự”. Về điểm này, theo tôi đây là một bài pháp có ý nghĩa sâu xa nhất mà Đức Phật đã để lại cho chúng ta hôm nay. Suốt cả cuộc đời của Đức Phật trước và sau khi chứng đạo rày đây mai đó cho đến ngày nhập Niết-bàn, chỉ có một mục đích duy nhất đó là giải quyết luân hồi sanh tử cho tất cả chúng sinh (sinh tử sự đại). Cổ đức đã trân trọng tán dương Đức Phật: “Kỳ vị sanh tử sự, giáo hóa độ xuân thu”. Sự xuất gia của Ngài cũng có nghĩa là sự từ bỏ tất cả, kể cả ngai vàng điện ngọc. Sự từ bỏ vô tiền khoáng hậu với tuổi đời vừa tròn mười chín. Đây chính là bài pháp không lời mà tất cả hàng xuất gia cũng như tại gia cần phải suy ngẫm. Có thể nói mà không sợ tam thế Phật oan là suốt 49 năm thuyết pháp không phân biệt Nguyên Thủy, Bộ Phái hay Đại Thừa, tất cả từng câu từng chữ trong tam tạng thánh điển Đức Như Lai đều không rời yếu nghĩa này. Cho đến năm 72 tuổi (552 Tr.TL), cuối đời Ngài, một lần nữa Ngài nhắc đến bản hoài của tam thế chư Phật là: Khai Thị và Ngộ Nhập Phật Tri Kiến cho tất cả chúng sinh. Ngài muốn tất cả chúng sinh đều thành Phật như Ngài. Đây mới thật sự là việc lớn của kiếp nhân sinh, và cũng là mục tiêu duy nhất của người con Phật.
Từ nhận định trên chúng ta có thể khẳng định:
Điều thứ nhất, trước khi trở thành một giảng sư chuyên nghiệp phải tôi luyện ý chí chịu đựng vô vàn thử thách, rèn luyện đức tính kiên nhẫn. Chúng ta hãy nhìn lại tấm gương thuyết pháp của Ngài Phú-lâu-na (Punna), một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, được tôn xưng là thuyết pháp đệ nhất. Khi được cử đi giáo hóa phương xa, nơi hiểm trở và con người độc ác. Ngài đã trả lời Đức Phật rằng: “…Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunapa ranta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con,… có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy…” [7] Với ý chí và sự nhẫn nại như thế chắc chắn không Phật sự nào mà không thành tựu. Thời quá khứ Giới Kinh của Đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipassī) vỏn vẹn chỉ có bốn câu mà đại chúng đều thành tựu đạo quả:
“Nhẫn nhục đệ nhất đạo,
Phật thuyết vô vi tối.
Xuất gia não tha nhơn,
Bất danh vi Sa Môn”.
Điều thứ hai, một giảng sư chuyên nghiệp tuổi đời không nên quá trẻ, phải có một thời gian nhất định nghiền ngẫm suy tư và hành trì những giáo lý căn bản nhất là Tứ Nhiếp Pháp cũng như Bát Chánh Đạo. Ngoài ra, phải thông thạo môn sinh ngữ nhất là Anh văn, Hoa văn, cổ ngữ… vừa để nghiên cứu các tác phẩm có liên quan đến Phật giáo nước ngoài, vừa nâng cao kiến thức chuyên môn cho một giảng sư, đặc biệt là giới thiệu văn học và tư tưởng Phật giáo cũng như văn hóa của Quốc gia để thế giới có một cái nhìn chính xác về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và con người Việt Nam. Không những thế, giảng sư phải am hiểu tường tận về ý nghĩa Ứng Phó Đạo Tràng, có thể thực hiện nghi lễ tán tụng và sắp đặt các lễ tiết một cách tương đối chuẩn mực.
III. Kết luận
Nhìn về tương lai, nếu muốn có một đội ngũ giảng sư trong thời hội nhập phải hội đủ hai đức tính như đã trình bày trên. Đồng thời phải cấp tốc đào tạo những nhân tố mới mang tính kế thừa để dấn thân phục vụ, ra sức gánh vác nhiệm vụ của Giáo hội, góp phần xây dựng Giáo hội, phát huy mạnh mẽ phương châm: “Trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội” để hoằng dương Chánh pháp, lợi lạc quần sinh. Có như thế công việc hoằng pháp của chúng ta mới được thành tựu mỹ mãn.
Tham khảo & chú thích
[1]. Theo Đại sư Trí Khải của tông Thiên Thai y cứ vào kinh Niết-bàn 5, phẩm Đức vương, cùng ý nghĩa trong bốn câu kệ: “Nhân duyên sở sinh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc danh vi giả danh, diệc danh trung đạo nghĩa” mà thành lập riêng bốn loại Tứ đế từ cạn đến sâu không đồng, phối hợp cùng bốn giáo tướng của Tạng, Thông, Biệt, Viên lại thành.
[2]. Đại Tạng Kinh VN, Kinh Trường Bộ (tập I), Kinh Đại Bổn, tr.502.
[3]. Pháp nhãn tịnh (S. Dharmacakwu-vizuddha; H. 法眼淨) cũng gọi Tịnh pháp nhãn, Thanh tịnh pháp nhãn. Có nghĩa là chỉ cho con mắt có khả năng thấy suốt chân lý các pháp mà không nghi ngờ, không bị chướng ngại.
[4]. Phạm hạnh (S. Brahmacariyā) nghĩa là đạo đức mô phạm chuẩn mực, thanh tịnh.
[5]. Ngũ trụ địa cũng gọi Ngũ trụ địa phiền não, chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa, hữu ái trụ địa và vô minh trụ địa. Vì 5 thứ phiền não này là chỗ nương tựa, chỗ cư trú của hết thảy phiền não và lại hay sinh ra các phiền não khác, cho nên gọi là trụ địa.
[6]. HT. Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, Nxb: Tôn giáo, 2006, tr.9.
[7]. Đại Tạng Kinh VN, Trung Bộ Kinh (tập III), Kinh Giáo giới Phú-lâu-na, tr.605.