Nguồn Gốc Phật Giáo Tây Tạng (Phần 2) – Nguyên Định

(tiếp theo phần 1 và hết)

II. Các tông phái Phật giáo Tây Tạng

Theo học giả A.C. Banerjee, [1] các tông phái Tây Tạng ra đời với mục đích giữ gìn sự thanh tịnh (P. Vissudhi) của giáo lý Phật giáo và tránh xa các thực hành suy thoái, mê tín, tín ngưỡng trước đó mà được thay vào các giáo lý thực hành theo con đường Phật giáo.

Sangharakshita, trong cuốn sách Phật giáo Tây Tạng, [2] ông đã đưa ra một số quan điểm của mình về sự phân chia tông phái của Phật giáo Tây Tạng. Thật đáng để trích dẫn những lời tác giả đã diễn tả, vì vậy nếu chúng ta tự hỏi “tông phái” của Phật giáo Tây Tạng có nghĩa là gì? tất cả những gì chúng ta có thể nói đó là một dòng truyền thừa đặc biệt của các bậc thầy (T. Guru, གུ་རུ་།) và đệ tử. Một người thầy nào đó giảng dạy Phật pháp cho các đệ tử của mình, họ dạy cho các đệ tử của họ, sự kế thừa này kết nối từ người thầy đến đệ tử, đó là những gì chúng ta gọi là tông phái. Dòng truyền thừa có thể có cách nhìn nhận riêng của họ về pháp (S. Dharma; T. Chö, ཆོས་།), nó có thể nhấn mạnh một khía cạnh cụ thể của giáo lý hoặc một sự thực hành đặc biệt nào đó, nhưng sự nhấn mạnh không hơn một sự nhấn mạnh, hiếm khi, nếu có, nó là duy nhất.

Học giả L. A. Waddell cho rằng, [3] các tông phái đã nổi dậy để chống lại sự suy thoái của Lạt-ma giáo (E. Lamaism; H. 喇嘛教), sau đó phổ biến không khác gì một sự lẫn lộn các vị tu sĩ thờ cúng ma quỷ và dùng phép phù thủy ma thuật. Đến thế kỷ XI S.TL, Tạng vương bấy giờ là Trí Quang (Jnanaprabha) muốn phục hưng Phật giáo, nên đã nhất niệm tâm thành cần cầu khẩn thiết Đại sư Atisha (982-1054) [4] từ Ấn-độ đến Tây Tạng để truyền bá giáo lý Phật giáo ở đó. Kể từ khi Atisha đến Tây Tạng, ngài đã chỉnh đốn, canh tân và hệ thống hóa các giáo lý Phật giáo thịnh hành ở “vùng đất tuyết”; ngài cũng đã cải cách Tăng đoàn (S. Saṃgha; P. Saṅgha; T. Dge-‘dun, དགེ་འདུན་།) ở Tây Tạng và mang lại một sự phục hưng vĩ đại trong tôn giáo. Với sự cải cách của ngài bắt nguồn từ tông phái Kadampa, đây là tông phái đầu tiên của Phật giáo Tây Tạng chống lại loại hình Phật giáo không được cải cách gọi là Cổ mật (T. Ningmapa, རྙིང་མ་བ་།) được thành lập bởi bậc Đại sư Liên Hoa Sinh, chúng biết đến nhiều hơn với tên gọi là Guru Rinpoche (T. གུ་རུ་རིན་པོ་ཆེ་།).

Một quan điểm khác, theo Tsepon W.D. Shakapa [5] cho chúng ta biết, những giáo lý của ngài Atisha đã được đưa vào một tông phái Phật giáo mới ra đời ở Tây Tạng. Để phân biệt với những tín đồ của Đại sư Liên Hoa Sinh, những tín đồ của ngài Atisha và Dröm được gọi là Kadampa trong khi các tu sĩ không được cải cách gọi là Cổ mật. Kể từ đó, Phật giáo Tây Tạng được chia thành nhiều tông phái khác nhau và cho đến hiện nay chỉ còn một vài trong số tông phái, cụ thể là có năm tông phái chính hoặc Tăng đoàn Phật giáo Tây Tạng.

1. Tông phái Nyingmapa (phái mũ đỏ)

Tông phái Nyingmapa (T. རྙིང་མ་པ་།) còn gọi phái Cổ mật của Phật giáo Tây Tạng,  có lâu đời nhất trong số năm tông phái và lớn thứ hai sau tông phái Gelugpa. Nyingmapa trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “cổ đại” và có nguồn gốc từ thế kỷ VIII S.TL, khi tôn giáo Bön bản địa được người Tây Tạng tôn sùng mạnh mẽ. Tông phái Cổ mật còn được gọi là phái mũ đỏ (red hat), bởi vì các Lạt-ma của tông phái này mặc y phục và đội mũ màu đỏ. Tư tưởng, giáo lý của tông phái Nyingmapa chủ yếu dựa trên những lời dạy của Đại sư Liên Hoa Sinh; được gọi là Đạo sư Guru Rinpoche và Đại sư Tịch Hộ, người được mời đến Tây Tạng thông qua triều đại của Hoàng đế Ngật-lật-song Đề-tán. Tông phái này được chia nhỏ thành một số tông phái “dựa trên việc áp dụng các bí truyền khác nhau.” Nổi bật trong số đó là Dorje-tak-pa, Nindol-lin-pa, Kar-tok-pa và Na-dak-pa. Về mặt truyền thống, Nyingmapa có ba dòng truyền chính: 1. Dòng lịch sử Kama [6] (T. Bka’-ma, བཀའ་མ་།); 2. Dòng trực tiếp Terma [7] (T. Gter-ma, གཏེར་མ་།) và 3. Dòng kiến chứng Dagnang [8] (T. Dag-snang, དག་སྣང་།).

Đầu tiên là dòng truyền thừa lịch sử Kama, được truyền đi mà không bị gián đoạn từ thầy đến đệ tử, từ đức Phật nguyên thủy, Phổ Hiền Bồ-tát (S. Samantabhadra; T. Kun-tu bzang-po, ཀུན་ཏུ་བཟང་པོ་།) qua Đạo sư Liên Hoa Sinh và các bậc thầy vĩ đại khác. Thứ hai là dòng Terma, được truyền bởi Đạo sư Liên Hoa Sinh cho các thế hệ đệ tử trong tương lai. Sau khi ban những phép quán đảnh (S. Abhiṣeka; T. Rang-dbang, རང་དབང་།), chỉ các hướng giải thoát cho các đệ tử của mình, Đạo sư Liên Hoa Sinh đã giao phó những giáo lý đặc biệt cho mỗi người và bí truyền một cách kỳ diệu ở những nơi khác nhau như: đền thờ, hình tượng, bầu trời, đá và hồ. Ngài tiên tri rằng, trong tương lai những đệ tử này sẽ tái sinh, đem những giáo lý từ nơi bí truyền của họ để truyền bá đến những nơi xa và rộng làm lợi ích cho chúng sinh, những vị Lạt-ma tái sinh như vậy được gọi là Terton (T. གཏེར་སྟོན་།). Trong thời gian thích hợp, một Terton có tầm nhìn hoặc dấu hiệu chỉ ra cách thức và nơi để tái sinh. Ngoài ra, trong trường hợp về mặt “tâm trí” những lời dạy không được khai quật về thể xác mà phát sinh trong tâm trí Terton, những bậc thầy như vậy đã xuất hiện trong suốt nhiều thế kỷ cho đến ngày nay. Trong trường hợp thứ ba, đó là dòng Kiến chứng Dagnang, Đạo sư Liên Hoa Sinh xuất hiện với Terton và đích thân nói chuyện với vị đó.

Tông phái Cổ mật chia toàn bộ Phật pháp từ Kinh điển đến Mật điển thành chín phần đó là ba Hetulaksanayānas và sáu Phalavajrayānas. Ba Hetulaksanayānas là Thanh văn thừa (S. Śravakayāna), Duyên giác thừa (S. Pratyekabudhayāna) và Bồ-tát thừa (S. Bodhisattvayāna). Sáu Phalavajrayānas là ba Mật điển bên ngoài và ba Mật điển bên trong. Ba Mật điển bên ngoài [9] là Kriyāyoga, Caryāyoga và Yogātantra; ba Mật điển bên trong [10] là Mahāyoga (Đại du-già), Anuyoga (A nậu du-già)  và Atiyoga (Đại viên mãn).

Nhiều ngôi sao sáng đã xuất hiện trong dòng truyền thừa Cổ mật, trong số đó có Gyalwa Longchen Rabjampa (T. ཀློང་ཆེན་རབ་འབྱམས་།, 1308-1363), người đầu tiên viết ra và biên soạn một cách có hệ thống những giáo lý của Đại toàn thiện, [11] những giáo lý tối thượng của Mật điển về bản chất của tâm và pháp. Minling Terchen Gyurme Dorje (T. སྨིན་གླིང་གཏེར་ཆེན་འགྱུར་མེད་རྡོ་རྗེ་།, 1646-1714) cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và thu thập toàn bộ dòng truyền Cổ mật về kinh điển. Ngoài ra, còn có các vị Đại sư khác rất nổi tiếng như: Rigdzin Jigme Lingpa (T. རིག་འཛིན་འཇིགས་མེད་གླིང་པ་།, 1729-1798), Patrul Rinpoche (T. རྫ་དཔལ་སྤྲུལ་རིན་པོ་ཆེ་།, 1808-1887), Lama Mipham (T. འཇམ་མགོན་མི་ཕམ་རྒྱ་མཚོ་།, 1846-1912), Jamyang Khyentse Wangpo (T. འཇམ་དབྱངས་མཁྱེན་བརྩེའི་དབང་པོ་།, 1820-1892) và Jamgön Kongtrül Lodrö Thayé (T. འཇམ་མགོན་ཀོང་སྤྲུལ་བློ་གྲོས་མཐའ་ཡས་།, 1813-1899).  Phái Cổ mật cảm thấy rằng dòng dõi của họ đại diện cho những giáo lý chân thực, và đầy đủ nhất của những vị Đạo sư đầu tiên đã truyền bá Phật giáo đến “vùng đất tuyết”.

Một số Tu viện (T. Dgon-pa, དགོན་པ་།)  lớn của tông phái Cổ mật được biết đến như:

(a) Tu viện Dorje drak (T. རྡོ་རྗེ་བྲག་།).

(b) Tu viện Dzogchen (T. རྫོགས་ཆེན་།).

(c) Tu viện Kathok (T. ཀཿ་ཐོག་།).

(d) Tu viện Midroling (T. སྨིན་གྲོལ་གླིང་།).

(e) Tu viện Palyul (T. དཔལ་ཡུལ་།). 

(f) Tu viện Shechen (T. ཞེ་ཆེན་།).

Dòng truyền thừa Cổ mật được cho là có “sáu tu viện mẹ”, mặc dù các tu viện đã thay đổi theo thời gian. Cũng cần lưu ý, Tu viện Samye (T. Bsam-yas, བསམ་ཡས་།; H. 桑耶寺) là tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, được thành lập bởi Đạo sư Liên Hoa Sinh (S. Padmasambhava; T. Pad-ma ‘byung-gnas, པད་མ་འབྱུང་གནས་།) và Đại sư Tịch Hộ (S. Śāntarakṣita; T. Zhi-ba ‘tsho, ཞི་བ་འཚོ་།).

2. Tông phái Sakyapa (phái mũ xám)

Tông phái Sakyapa (T. ས་སྐྱ་པ་།) của Phật giáo Tây Tạng khởi nguồn từ đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Nguồn giáo pháp quan trọng nhất của truyền thống Sakyapa là hành giả vĩ đại người Ấn-độ Virupa (T. བི་རུ་པ་།, tk IX S.TL), một trong tám mươi bốn Đại thành tựu [12] (S. Caturaśītisiddha; T. Drup-top-gyé-chu-tsa-zhi, གྲུབ་ཐོབ་བརྒྱད་ཅུ་རྩ་བཞི་།) và sự thành tựu vi diệu nhất thông qua Đạo sư Gayadhara (T. ག་ཡ་དྷ་ར་།, 994-1043) tới đệ tử người Tây Tạng là Drokmi lotsawa Shakya Yeshe (T. བྲོག་མི་ལོ་ཙཱ་བ་ཤཱཀྱ་ཡེ་ཤེས་།, 992-1072). Đạo sư Drokmi lotsawa đã truyền lại cho đệ tử là Khön Könchok Gyalpo (T. འཁོན་དཀོན་མཆོག་རྒྱལ་པོ་།, 1034-1102), người đã xây dựng tu viện vĩ đại ở vùng T-sang (T. གཙང་།) miền trung Tây Tạng. Khu vực này có rất nhiều đất màu xám, nên về sau vị trí này được gọi là “Trái đất xám” Sakya.

Đạo sư Khön Könchok Gyalpo là người thành lập tông phái Sakyapa vào năm 1073 và pháp tử của ngài là Künga Nyingpo (T. ས་ཆེན་ཀུན་དགའ་སྙིང་པོ་།, 1092-1158), đóng một vai trò quan trọng trong việc hệ thống hóa giáo lý Sakyapa. Hơn nữa, dòng truyền thừa Sakyapa nhấn mạnh các khía cạnh Mật giáo và Hiển giáo. Có thể nói rằng, phái mũ xám phần lớn còn nhiều hạn chế so với tông phái mũ đỏ và mũ vàng. Nhưng dù sao đi nữa, dòng truyền thừa Sakyapa vẫn còn tồn tại đến ngày nay và dòng truyền thừa này bao gồm ba truyền thống chính đó là:

(a)  Dòng truyền thừa chính Sakya

Tông phái Sakyapa thuộc dòng truyền thừa Khön (T. ཁོན་།) là dòng truyền gốc, sau đó phân nhánh thêm hai phái là Ngorpa và Tsarpa. Đây là ba truyền thống hoặc tông phái chính trong truyền thống Sakyapa được gọi là “Sa-Ngor-Tsar-Sum”.

(b) Dòng truyền thừa Ngorpa

Đạo sư Ngorchen Kunga Zangpo (T. ངོར་ཆེན་ཀུན་དགའ་བཟང་པོ་།, 1382-1457) và các bậc thầy liên tiếp như Könchok Lhundrup (T. དཀོན་མཆོག་ལྷུན་གྲུབ་།, 1497-1557), Thartse Namkha Palsang và Drubkhang Pelden Dhondup là những bậc thầy chính của dòng truyền thừa Ngorpa, trong đó dòng truyền này nhấn mạnh đến truyền thống tu viện và những pháp thực hành về giới luật.

(c) Dòng truyền thừa Tsarpa

Đây là dòng truyền thừa xuất phát từ Đạo sư Tsarchen Losal Gyatso (T. ཚར་ཆེན་བློ་གསལ་རྒྱ་མཚོ་།, 1502-1566), còn được gọi là “dòng truyền thừa khẩu truyền Tsar.”  Điểm chính không kém phần quan trọng của dòng truyền thừa này là nói về 13 bản kinh vàng của Tsar, bao gồm các học thuyết bí mật của Mahākāla (T. Nak-po chen-po, ནག་པོ་ཆེན་པོ་།) lớn hơn hoặc nhỏ hơn, Vajra Yogini (T. Rdo-rje rnal-byor ma, རྡོ་རྗེ་རྣལ་འབྱོར་མ་།), Jambhala và những Bổn tôn (T. Yi-dam, ཡི་དམ་།) khác, đây được gọi là truyền thống Tsar. Dòng Sakyapa cũng thành lập một số tu viện nhấn mạnh việc nghiên cứu kinh điển Phật giáo như tu viện Sakya (T. ས་སྐྱ་དགོན་པ་།) là vị trí của Đạo sư Sakya Trizin (T. ས་སྐྱ་ཁྲི་འཛིན་།), đặc biệt trong số những người nghiên cứu có Đại sư Tông-khách-ba, người sau này sáng lập tông phái Gelugpa.

3. Tông  phái Kagyupa (phái mũ trắng)

Kagyupa (T. བཀའ་བརྒྱུད་།) là tông phái lớn thứ ba của Phật giáo Tây Tạng. Giáo lý của tông phái này được phiên dịch và truyền đến Tây Tạng bởi Đạo sư Marpa (T. མར་པ་།, 1012-1096) vào thế kỷ XI S.TL, người đã du hành đến Ấn-độ để học và thụ nhận giáo pháp từ người thầy Yogin Nāropā (1016-1100). Trên hành trình tìm cầu Phật pháp, ngài đã trải qua không biết bao nhiêu gian lao thử thách, có lúc tưởng chừng như mất mạng, nhưng với lòng quyết tâm ngày đêm tinh tấn hành trì mật pháp, mọi sự cát tường (S. Maṃgala; P. Maṅgala; T. Chen-poḥi, ཤིས་ཆེན་པོའི་།) luôn gia hộ cho ngài. Người đệ tử xuất sắc nhất mà sau này kế thừa giáo pháp của thầy mình là Milarepa (T. མི་ལ་རས་པ་།, 1040-1123).

Vào thế kỷ XII S.TL, Gampopa Sönam Rinchen (T. སྒམ་པོ་པ་བསོད་ནམས་རིན་ཆེན་།, 1079-1153) đã tổng hợp những lời dạy của Marpa và Milarepa thành một tông phái độc lập, như tên gọi Kagyupa, chú trọng vào việc truyền dạy các giáo lý từ người thầy sang đệ tử, và thực hành thiền định gọi là “Đại thủ ấn” (S. Mahāmudrā; T. Phyag-rgya chen-po, ཕྱག་རྒྱ་ཆེན་པོ་།), nó cũng nhấn mạnh các thực hành Hatha yoga [13] để điều hòa giữa hai nguồn năng lượng chính trong cơ thể con người và năng lượng của vũ trụ. Ngoài ra, tiến xa hơn nữa, tông phái mũ trắng còn thực hành về sáu pháp yogi (T. Rnal-‘Byor Pa, རྣལ་འབྱོར་པ་།) của Đạo sư Nāropā (1016-1100) được đặt theo tên của bậc thầy Ấn-độ, sáu yogi là: (1) nhiệt bên trong (T. Tum-mo, གཏུམ་མོ་།); (2) thân giả tạm (T. Gyu-lü, སྒྱུ་ལུས་།); (3) ánh sáng rõ ràng (T. Od-gsal, འོད་གསལ་།); (4) giấc mơ (T. Rmi-lam, རྨི་ལམ་།); (5) thân trung ấm (T. Bar-do, བར་དོ་།) và (6) vận chuyển tâm thức vào lúc chết (T. Pho-ba, འཕོ་བ་།), [14] đó là những phương pháp thiền định một phần trùng hợp với những lời dạy trong “Tử thư Tây Tạng” (T. Bardo thodol, བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་།). [15] Truyền thống Kagyupa còn cho chúng ta biết thêm về các tu viện ở tỉnh Kham (T. ཁམས་།) miền đông Tây Tạng cụ thể là:

(a) Tu viện Palpung (T. དཔལ་སྤུ་།), chỗ ngồi của Tai Situpa (T. ཏའི་སི་ཏུ་པ་།) và Jamgon Kongtrul (T. འཇམ་མགོན་ཀོང་སྤྲུལ་།).

(b) Tu viện Ralung (T. རྭ་ལུང་།), chỗ ngồi của Gyalwang Drukpa.

(c) Tu viện Surmang (T. ཟུར་མང་།), chỗ ngồi của Trungpa Tülkus.

(d) Tu viện Tsurphu (T. མཚུར་ཕུ་།), nằm ở trung tâm Tây Tạng chỗ ngồi của Gyalwa Karmapa.

4. Tông phái Kadampa

Tông phái Kadampa (T. བཀའ་གདམས་པ་།) của Phật giáo Tây Tạng xuất hiện vào thế kỷ XI S.TL, vô cùng tích cực và đầy tính sáng tạo, thể nghiệm bằng con đường nuôi dưỡng lòng từ bi. Đạo sư Ấn-độ Atisha (982-1054) là người sáng lập nên tông phái này. Tuy nhiên, về phương diện thời gian chúng không tồn tại bền vững như một truyền thống độc lập, mà nó đã thâm nhập vào các trường phái khác và để lại tầm ảnh hưởng lâu dài.

Thuật ngữ “Kadampa” bắt đầu được sử dụng vào thế kỷ XII S.TL, để nói về các đệ tử của Đạo sư Atisha. ‘Ka’ có nghĩa là tất cả lời dạy của đức Phật; ‘dam’ là một bài pháp thoại thực tế về những lời dạy của đức Phật, có thể áp dụng trực tiếp cho xã hội hiện đại; và ‘Pa’ là chỉ cho con người. Vì vậy, Kadampa là người tích hợp những giáo lý của đức Phật vào cuộc sống hằng ngày của họ và cũng được xem là một phần di sản chung của tất cả người Tây Tạng, bao gồm cả việc truyền bá tín ngưỡng về Quán Thế Âm (S. Avalokiteśvara; T. Spyan-ras-gzigs, སྤྱན་རས་གཟིགས་།), dù bất kỳ lịch sử nào của Kadampa cũng đều bắt đầu từ Đạo sư Atisha.

4.1. Đại sư Atisha – vị học giả vĩ đại của Ấn-độ

Đại sư Atisha (982-1054) là một nhà sư, học giả nổi tiếng đại diện của Phật giáo Ấn-độ. Ngài đến Tây Tạng bằng lời mời vào khoảng  năm 1030 sau những người đệ tử xuất sắc của ngài, các đệ tử của ngài Atisha được biết đến như những người sáng lập tông phái Kadampa của Phật giáo Tây Tạng. Atisha là một vị tăng của phái Thuyết-xuất-thế bộ (S. Lokottaravāda; H. 說出世部) thuộc Đại chúng bộ (S. Mahāsāṃghika; H. 大眾部). Đặc biệt, ngài được đánh giá là một bậc thầy có tấm lòng nhân ái và thích hòa đồng, bằng tâm lực và nguyện lực, ngài luôn dành tất cả thời gian cho việc giảng dạy Giới luật (S & P. Vinaya; T. Dul-ba, འདུལ་བ་།) tại tu viện Nyétang (T. མཉེས་ཐང་།). Nhưng điều đáng tiếc không bao lâu sau đó, việc giảng dạy này bị hoãn lại bởi một lệnh cấm trước đây, đối với việc dạy bất kỳ Giới luật nào ngoài Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu bộ (S. Mulasarvāstivāda; H. 根本說一切有部).

Tông phái Kadampa không có hệ thống truyền giới Luật tạng của riêng họ, vì vậy đã làm cho những người đệ tử theo Kadampa đầu tiên phải phụ thuộc vào các truyền thống khác, do đó ít ảnh hưởng hơn vào thời điểm này. Trong suốt thời gian Đại sư Atisha hoằng truyền chánh pháp ở “vùng đất tuyết”, một số tu viện Kadampa do ngài thành lập và một số ít tu viện phụ thuộc vào Luật tạng phương Đông cũng được chấp nhận. Đặc biệt, ngài Atisha luôn nhận sự bảo trợ giúp đỡ của Luật tạng phương Đông, trong chuyến du hành của mình ở Tây Tạng, đây là điều rất quan trọng cho sự thành công của ngài trong thời gian về sau.

Hơn nữa, Đại sư Atisha cũng được xem là một bậc thầy sáng giá nhất trong bầu trời tâm linh của Phật giáo Tây Tạng, với những lời giáo huấn [16] và tác phẩm kiệt xuất của ngài đã mang vào Tây Tạng “Đèn soi nẻo giác” [17] (S. Bodhi-patha-pradīpa; T. Byang-chub-lam-gyi-sgron-ma, བྱང་ཆུབ་ལམ་གྱི་སྒྲོན་མ་།; H. 菩提道燈論; E. The lamp for the path of awakening), đặt nền móng cho nhiều thế kỷ nghiên cứu, sự quán chiếu, chứng đắc và giác ngộ được dựa trên 84.000 bài pháp hay pháp uẩn (P. Dhamma-khandhas; T. Chos-kyi phung-po, ཆོས་ཀྱི་ཕུང་པོ་།); H. 法蘊) mà đức Phật đã thuyết. Từ những lời dạy tinh túy của ngài Atisha nó sẽ trở thành xương sống của truyền thống Kadampa. Không những thế, sau này tông phái Gelugpa của Phật giáo Tây Tạng đã kế thừa phát triển rộng rãi.

Thông qua những nỗ lực to lớn của Đại sư Atisha trong việc truyền bá Phật pháp ở “vùng đất tuyết”, tông phái Kadampa của Phật giáo Tây Tạng, cuối cùng đã được thành lập bởi đệ tử xuất sắc Dromtönpa.

4.2. Dromtönpa Gyelwé Jungné

Dromtönpa hoặc Dromtönpa Gyelwé Jungné (T. ‘Brom-ston-pa rgyal-ba’i ‘byung-gnas, འབྲོམ་སྟོན་པ་རྒྱལ་བའི་འབྱུང་གནས་།, 1004-1064) là một vị cư sĩ đệ tử xuất sắc của Đại sư Atisha. Dromtönpa đã từng học Trung quán (S. Mādhyamika; T. Dbu-ma-pa, དབུ་མ་པ་།), các nghi lễ và Mật tông của phái Nyingmapa với một vị Lạt-ma tên là Trumkyi Khenbu Chenpo Setsun (grum-gyi mkhan-bu chen-po se-btsun). Ngài học tiếng Phạn và ngữ pháp với người thầy Paṇḍita Ấn-độ, đạo hiệu Smṛti-Jñānakīrti (T. Dran-pa ye-shes grags-pa, དྲན་པ་ཡེ་ཤེས་གྲགས་པ་།; Tuệ xứng, tk XI S.TL). Dromtönpa cũng là người thành lập tu viện Reting (T. རྭ་སྒྲེང་དགོན་པ་།; H. 热 振 寺) vào năm 1056 ở miền trung Tây Tạng phía đông bắc Lhasa.

Các đệ tử của Dromtönpa có khoảng 60 đến 80 người theo học tại Reting (T. རྭ་སྒྲེང་།), trong đó có ba vị đệ tử được xem là xuất sắc nhất Punchungwa Zhönu Gyeltsen (1031-1109), Chenga Tsultrim-bar (1038-1103) và Potaba Rinchen-sel (1027-1105); ba vị này đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo Tây Tạng vào thời kỳ phục hưng. Đặc biệt, người thầy Dromtönpa mặc dầu với hình thức là cư sĩ, nhưng đầy đủ các tố chất thẩm quyền cho việc thành lập tu viện Reting và tiếp nhận đệ tử, có thể nói đây là điều rất đặc biệt và hiếm gặp trong Phật giáo Tây Tạng.

4.3. Các tu viện Kadampa

Thế kỷ XI S.TL là điểm mốc thời gian nhanh chóng cho việc xây dựng tu viện của tông phái Kadampa (cam-đam). Người ta đã ước tính rằng, vào giữa thế kỷ XI S.TL, có khoảng 30 đến 40 tu viện đã được xây dựng. Bởi vì truyền thống Kadampa không bao giờ thiết lập hệ thống Giới luật của riêng họ, phần lớn các tu viện này về chương trình giảng dạy và vấn đề xuất gia đều tùy thuộc vào các truyền thống khác.

Vào cuối thế kỷ XI S.TL và đầu thế kỷ XII S.TL, chúng ta thấy sự gia tăng không thể phủ nhận về tầm quan trọng của tông phái Kadampa ở Tây Tạng. Một nỗ lực xây dựng các tu viện Kadampa đồ sộ đã bắt đầu vào giữa thế kỷ XI S.TL và tiếp tục không ngừng xây dựng trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Các tu viện Kadampa vĩ đại trong thời kỳ phục hưng bao gồm tu viện Nyétang (T. Snye-thang, སྙེ་ཐང་།), tu viện Sangpu Néütok (T. Gsang-phu ne’u-thog, གསང་ཕུ་ནེའུ་ཐོག་།; H. 桑普寺), [18] tu viện Solnak Thanpöché (T. ཐང་པོ་ཆེ་།; H. 索纳塘波且寺) và tu viện Reting (T. རྭ་སྒྲེང་དགོན་པ་།; H. 热振寺). Hầu hết các tu viện này trở nên nổi tiếng nhờ vào sự nghiên cứu về các hệ thống triết học mới nhất và sự cống hiến của họ cho học thuyết Đại thừa (S. Mahāyāna). Đặc biệt là Tu viện Sangpu Néütok, những tu viện Kadampa thường được xem là nơi để nghiên cứu tư tưởng triết học cũng như thảo luận Phật pháp của Tây Tạng.

Tuy nhiên, đáng chú ý tu viện Reting không được liệt kê vào các tu viện Kadampa vào thế kỷ XI S.TL, vì không thuộc dòng truyền thừa Luật tạng phương Đông, nhưng nó có tiếng là tu viện nơi các nhà lãnh đạo Kadampa đã truyền bá thành công Phật giáo Tây Tạng, đó cũng là một khía cạnh quan trọng của Tây Tạng hóa Phật giáo trong thời kỳ phục hưng. Về sau, tu viện Reting sáp nhập trở thành mọi hoạt động Tăng đoàn của tông phái Gelugpa.

5. Tông phái Gelugpa (phái mũ vàng)

Tông phái Gelugpa (T. དགེ་ལུགས་པ་།) còn gọi là phái mũ vàng của Phật giáo Tây Tạng. Phần này sẽ được trình bày nội dung chi tiết rõ hơn trong bài nghiên cứu: “Những đặc tính của tông phái Gelugpa trong Phật giáo Tây Tạng”.

Tham khảo và chú thích

[1]. A.C. Banerjee, Aspects of Buddhist Culture from Tibetan Sources, Published by  Calcutta, Firma KLM, 1984, tr. 45.

[2]. Sangharakshita, Tibetan Buddhism, Birminggham, UK.: Windhorse Publication, 1996, tr. 28.

[3]. L. A. Waddell, Buddhism & Lamaism of Tibet, New Delhi: Heritage Publishers, 1974, các tr. 74-75.

[4]. Atisha (S. Atiśa dīpankara śrījñāna; T. ཇོ་བོ་རྗེ་དཔལ་ལྡན་ཨ་ཏི་ཤ་།; H. 燃燈吉祥智). Xem thêm Translated by Alka Chattopadhyaya, Atisa and Tibet: Life and Works of Dipamakara Srijnana (Alias Atisa) in Relation to the History and Religion of Tibet With Tibetan Sourses Translated Under the Guidance of Lama Chimpa, Motilal Banarsidass Publishers Private Limited, New Delhi, 2011.

[5]. Tsepon W.D. Shakabpa, Tibet: A Political History, New Haven, Yale University Press, 1967, các tr. 59-60.

[6]. Xem Sogyal RinpocheDzogchen và Padmasambhava, Published by Rigpa Fellowship,U.S,  1989, tr. 73.

[7]. Xem Tulku Thondup Rinpoche và Harold Talbott (ed.), Masters of Meditation and Miracles, Published by Boston: Shambhala, 1996.

[8]. Xem Tulku Thondup Rinpoche, Hidden Teachings of Tibet, Boston: Wisdom Publications, 1986, các tr. 61-62.

[9]. Longchen Rabjam, The Practice of Dzogchen, Snow Lion Publications Ithaca, New York, 1989, các tr. 15-29.

[10]. Sđd., các tr. 36-41.

[11]. Đại toàn thiện còn gọi Đại viên mãn, Đại cứu cánh (S. Mahāsaṅdhi; T. Rdzogs-pa chen-po, རྫོགས་པ་ཆེན་པོ་།). Xem thêm Sogyal Rinpoche, The Tibetan Book of Living and Dying, Harper SanFrancisco Publications, 1992, tr. 155.

[12]. Xem Keith Dowman, Masters of Mahāmudrā: Songs and Histories of the Eighty-four Buddhist Siddhas, Albany: State University of New York Press, 1986.

[13]. Xem Swami Sivananda Radha, Hatha Yoga: The Hidden Language Symbols, Secrets & Metaphor, Library and Archives Canada Cataloguing in Publication, 2006.

[14]. Xem thêm John Powers, Introduction to Tibetan Buddhism, Snow Lion Publications, 1995, tr. 405.

[15]. Xem Padmasambhava (author); Terton Karma Lingpa; Robert A.F. Thurman (trans.), The Tibetan Book of the Dead, Published by  Bantam Books, 1993.

[16]. Xem http://chuamaisonvinhan.org/nhung-loi-giao-huan-cua-dai-su-atisha/

[17]. Xem Thích Nữ Trí Hải (dịch), Đèn Soi Nẻo Giác và Luận Giải, Nxb Tổng Hợp, 2006.

[18]. Xem Ronald M. Davidson, Tibetan Renaissance: Tantric Buddhism in the Rebirth of Tibetan Culture, Motilal Banarsidass Publishers Private Limited-Delhi, 2005, các tr. 111-112.

Mật Tông