Phật Thừa Tông Yếu Luận Giảng Giải – Nguyên Định

Bài 8: Nguyên Thủy Phật Giáo (Phật Pháp Tiểu Thừa) (phần 1)

A. Giới thiệu

Khi đức Phật còn tại thế, vẫn chưa phân biệt danh xưng tên gọi Tiểu thừa hay Đại thừa gì cả, mà sự phân biệt này phát sinh sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, cụ thể khởi nguyên thế kỷ thứ nhất Tr.TL (cách Phật Niết-bàn 500 năm). Phật pháp có thể chia thành 2 bộ giáo, đó là Hiển giáo (giáo lý hiển hiện tỏ rõ, thông qua ngôn từ, kinh sách, luận giải) và Mật giáo. Hay nói khác, công truyền (exoteric) và bí truyền (esoteric). Hiển giáo chia ra Tiểu thừa và Đại thừa. Tiểu thừa hay Tiểu thừa pháp là nói lên nhân quả, pháp hạnh của 2 thừa – Thanh văn (S. Śrāvaka) và Duyên giác (S. Pratyeka). Đồng thời, cũng nói lên sự sai khác với Đại thừa hay Phật thừa. Nguyên nhân cũng như những lý do sai khác này, phần lớn y cứ trên căn cơ trình độ của người tiếp thu và tu tập theo giáo pháp Phật. Trên cơ sở giáo lý thích hợp đó mà tu hành và đạt được kết quả tương xứng với nhân pháp và hạnh nguyện của mình.

B. Nội dung

I. Định nghĩa Tiểu thừa

Tiểu thừa là pháp nhân còn giới hạn, chưa rốt ráo viên mãn, do đó đưa đến pháp quả cũng chưa viên mãn, đó là quả vị A-la-hán (S. Arahat; P. Arahat) là quả vị cao nhất của Tiểu thừa.

Tiểu thừa (S. Hīnayāna) là đối lại với Đại thừa (S. Mahāyāna) mà nói. Vì Đại thừa thường hay chú trọng về lợi tha; còn Tiểu thừa nghiêng về tự lợi.

Chưa đạt đến quả vị cứu cánh, chưa  tuyệt đối nên gọi là Tiểu thừa. 

Tiểu thừa gồm có hai thừa là Thanh văn và Duyên giác thừa.

Thanh văn là chỉ người tu tập quán pháp Tứ đế. Tứ đế là pháp được tu. A-la-hán là quả sở chứng, còn gọi là Thanh văn Bồ-đề.

Duyên giác là người tu 12 nhân duyên (Thập nhị nhân duyên, S. Pratītyasamutpāda; P. Paṭiccasamuppāda; E. Dependent origination), 12 nhân duyên là pháp được tu. Duyên giác Bồ-đề là quả sở chứng.

Quả vị tu chứng tối cao của Duyên giác thừa là Bích Chi Phật (S. Pratyekabuddha). Trong trường hợp được gọi là Bích chi Phật (S. Pratyeka-buddha), vì người này ra đời không gặp Phật, không nghe pháp 12 nhân duyên, nhưng với tinh thần tự giác quán lý vô thường của các pháp, như thấy hoa rơi, lá rụng, nước chảy v.v… mà ngộ đạo. Bích chi Phật có hai, đó là: Duyên Giác Phật và Độc Giác Phật. Duyên Giác là những vị do căn tu hành nhờ nghe theo Phật Toàn giác mà chứng được Phật quả. Độc Giác Phật là những vị có khả năng tự tu, tự giác, tự chứng ngộ lý Duyên khởi không thầy chỉ dạy mà chứng được Phật quả.

II. Tông yếu của pháp Tiểu thừa – Phần ngộ lý

Tông yếu của Tiểu thừa là liễu sanh thoát tử, lấy mục đích siêu xuất thế gian làm cứu cánh, mà muốn siêu xuất thế gian thì trước hết phải quán sát các pháp thế gian, thấy rõ bản chất và hậu quả của chúng, sau đó nỗ lực tu hành, chứng ngộ giải thoát.

a. Biết rõ sanh là nguồn gốc của khổ đau

Bằng trí tuệ như thật, hàng Tiểu thừa quán thấy rõ ba hiện tượng: Sanh – Tử – Khổ. Vì có sanh nên có tử; vì có sống nên có chết. Do đâu có sanh? Suy cho cùng nguyên ủy của nó là do vô minh, vọng nghiệp, vọng thức, vọng duyên; phiền não đời quá khứ tập quán nghiệp tích lũy mà có. Cho nên nói: Hoặc, Nghiệp, Khổ có nghĩa là: Các phiền não như tham, sân, si thì gọi là Hoặc (lậu hoặc, cấu uế, phiền não bẩn nhơ); những việc làm thiện hay bất thiện y vào cái Hoặc phiền não này gọi là Nghiệp (có nghiệp thiện, nghiệp ác); lấy nghiệp này làm nhân sinh tử Niết-bàn gọi là Khổ.

Nói theo pháp 12 nhân duyên: Vô minh, ái, thủ – 3 chi này là Hoặc (tức phiền não). Hành, Hữu – 2 chi nầy là Nghiệp đạo. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Sanh, Lão tử – 7 chi nầy là Khổ đạo.

Thế nên, bước đầu tiên của Tiểu thừa pháp là phải liễu tri (P. Abhiññā; C.了知),[1] cái sanh này chính là nguồn gốc của các sự khổ đau, mà liễu có 2 nghĩa: liễu tri và liễu thoát, có nghĩa là do từ hiểu biết hoàn toàn mà cầu được giải thoát giác ngộ hoàn toàn. cũng giống như muốn dẹp tan giặc cướp, thì trước tiên phải nắm được sào huyệt đóng quân của bọn chúng ở đâu ? số lượng bao nhiêu tên ? nhiều hay ít, nội tình trong sào huyệt như thế nào ? phải nắm bắt 1 cách chính xác rồi sau đó mới tấn công đánh tan quân địch. Vấn đề giải thoát sanh tử cũng không ngoại lệ, người tu phải quán sát cùng tột nhân quả thế gian để đoạn hoặc chứng chơn, chuyển mê khai ngộ.

 Qua đó, thực tế cho chúng ta thấy, sự hiện hữu của con người là khổ đau, khổ đau được nhìn nhận trên 2  phương diện.

Chúng ta nên biết : khổ thuộc về tâm, còn đau thuộc về thân thể. Nói về khổ, đức Lão Tử (571-471 Tr.TL) đã từng thốt lên rằng: “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?[2] Nghĩa là: Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo?. Dịch thơ: Luôn sợ hãi là do thân thể, không thân này hồ dễ âu lo.

Khổ là 1 trong 8 cái khổ đứng về giáo lý Tứ diệu đế mà nói. Thực tế con người chúng ta sinh ra đời, có mặt trong cõi ta bà, kham nhẫn này là chấp nhận cái khổ thương đau.

Trong Phật pháp, trên con đường học đạo, tu đạo và hành đạo, người hành giả lấy “khổ” làm đề mục để quán chiếu. Trong bài thơ Bể thảm, thi nhân Đoàn Như Khuê (1883-1957) đã nói:

Bể thảm mênh mông sóng lút trời

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió

Coi lại cùng trong bể thảm thôi!

Coi lại cùng trong bể thảm thôi

Nổi chìm, chìm nổi biết bao người

Kiếp người nghĩ cũng lênh đênh quá

Quá cánh bèo trên mặt nước trôi.

Quá cánh bèo trên mặt nước trôi

Nước trôi bèo nổi, ngán cho đời

Cuộc đời đổi đổi, thay thay mãi

Trải mấy lần dâu hoá bể khơi.

Trải mấy lần dâu hoá bể khơi

Một, hai, ba tuổi, chín, mười mươi

Xiết bao mừng rỡ, bao thương xót

Khóc mấy mươi phen, mấy trận cười!

Khóc mấy mươi phen, mấy trận cười

Dẫu cười chưa hẳn đã là vui

Trần vui sao lại cho là tục

Mới lọt lòng ra đã khóc rồi.

Mới lọt lòng ra đã khóc rồi

Kiếp trần ngán lắm khách trần ơi

Một lần mình khóc, lần người khóc

Sống thác đôi lần, giọt lệ rơi.

Sống thác đôi lần, giọt lệ rơi

Cảnh phù du cũng khéo trêu người

Bể bao nhiêu nước bao nhiêu thảm

Lấp chẳng đầy cho, tát chẳng vơi!

Một khi chúng ta chưa giác ngộ được “sanh là nguyên nhân của khổ”, thì cho dù tu có mấy chục năm đi chăng nữa thì vẫn Dukkha mà thôi, khổ khổ mãi, khổ dài dài; khổ vô lối, khổ không đường thoát. Vì sao Thiên đường có lối không ai đến, còn Địa ngục không cửa lắm kẻ vào ? Thiên đường hữu lộ vô nhân vấn. Địa ngục vô môn hữu khách tầm. Trong giáo pháp Phật có 2 món ăn tinh thần cực kỳ bổ dưỡng, đó là: Thiền duyệt thực và Pháp hỷ thực. Hàng ngày chúng ta sống trong đạo, vui với đạo, con dốc lòng vì đạo hy sinh. “dù cho biển cạn đá mòn, tâm con vẫn mãi sắc son không mờ”.

Chúng ta nhận biết, sanh là khổ, mà nguồn gốc của khổ đau đó là tham, sân và si, gọi là chi mạt vô minh. Bởi do nghiệp nhân dâm, đạo, sát, vọng nên dẫn đến quả khổ. Bởi do đau ốm bệnh hoạn, già yếu mắt mờ tai điếc lưng còng gối mỏi bước đi run rẫy chậm chạp, rồi chết, ra đi không 1 lời trăn trối, đó không phải là khổ đau sao?

Về phương diện tiêu cực: người ta nói khổ, nhận định về khổ, hiểu về khổ. Thấy cuộc đời này khổ quá, làm ăn thua lỗ, tìm đến con đường của tử thoát thân. Khi chúng ta tu tập mà không có bậc Đạo sư, người thầy dẫn đường thì dễ đi vào lạc lối, trong Phật pháp gọi là tà kiến, hiểu sai lầm vấn đề, thời Phật Còn Tại Thế, Có 1 Số thầy Tỳ-kheo tu pháp quán thân bất tịnh, thấy thân hình ngũ uẩn ô uế – nhơ nhớp quá nên tìm cách quyên sinh sớm, có thầy còn nhờ người khác kết liễu cho họ, chết sớm bớt đau khổ; chuyện này đồn đến tai đức Phật, bi Phật quở trách, các ông tu hành là đệ tử của đức Gotama mà không có trí tuệ, mục đích quán bất tịnh là chuyển hóa tâm xa lìa ham muốn, không nên chấp vào thân thể uế trược này quá mức, để tiếp cận với Niết-bàn…

Về phương diện tích cực: cảm ơn mọi nhân duyên lành đã cho con người có được tấm thân ngũ uẩn xinh đẹp này, lục căn đầy đủ, trí tuệ tròn đầy, còn thân còn sống còn khỏe mạnh, thì chúng ta còn đủ điều kiện cơ sở để tu tập, học Phật. Có thơ rằng: “Còn ở lại một ngày còn yêu mãi, còn một đêm còn thở dưới trăng sao”. Nếu thân thể này đau ốm bịnh hoạn, sức khỏe không được khang kiện thì chúng ta có đủ nghị lực tinh thần tu tập, học Phật, lễ lạy Phật không? Cho nên, chúng ta nương vào tấm thân ngũ uẩn phù vân không khứ lai này để tu tập, “nhất thất nhân thân vạn kiếp bất phục”. Một điều đặc biệt là người xưa thường nhấn mạnh: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị. Nhất thất nhân thân tái phục nan”. Nghĩa là: Cây thiết thọ ngàn năm nở hoa còn dễ. Một khi đã mất thân người thì khó tìm lại được. Chúng ta đừng có tưởng kiếp này mình làm người, rồi kiếp sau mình cũng làm thân người được đâu, chưa chắc! Ngài Ngộ Dạt Quốc sư 10 đời làm Hoà Thượng, nhưng cũng không qua nỗi cái nghiệp mụt ghẻ. Cuối cùng phải dùng pháp Sám hối mới tiêu trừ hóa giải được nghiệp chướng. 3 nghiệp, nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng; muốn tiêu trừ 3 nghiệp này phải dùng nước pháp Sám hối là hiệu quả nhất. Do đó, người tu chúng ta 1 khi đã liễu tri nguồn gốc của sự khổ mà cần cầu liễu thoát.

b. Quán các pháp thế gian đều là vô thường, khổ, không, vô ngã và bất tịnh

Trên cơ sở học thuyết Tam pháp ấn[3] hàng Tiểu thừa quán các Pháp thế gian theo tinh thần Tứ Niệm xứ.[4] Nội dung pháp tu Tứ niệm xứ (P. Cattāra-satipaṭṭhāna) đó là: 1. Quán niệm về thân; 2. Quán niệm về thọ; 3. Quán niệm về tâm; 4. Quán niệm về pháp.

1. Quán niệm về thân      2. Quán niệm về thọ     3. Quán niệm về tâm

4. Quán niệm về pháp, quán pháp vô ngã gồm y báo, chính báo, sáu đại, năm uẩn, 12 xứ, 18 giới, 3 cõi, năm loài, chín địa, 25 cõi, 3 đời, 3 nghiệp, vô thường, khổ, không, vô  ngã. Kinh Pháp cú nói:

“Tất cả hành vô thường/ Với Tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán/ Chính con đường thanh tịnh.” (277)

“Tất cả hành khổ đau/ Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán/ Chính con đường thanh tịnh.” (278)

“Tất cả pháp vô ngã/ Với Tuệ quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán/ Chính con đường thanh tịnh.” (279)

Cho nên, muốn siêu xuất thế gian, trước hết hành giả phải quán sát, tìm hiểu tất cả pháp thế gian để được liễu tri về chúng 1 cách tận tường.

Năm uẩn (P. Panca-skandha ; E. Five aggregate) Sắc (rūpa ), Thọ (vedana), Tưởng (saṃjñā), Hành (saṃskāra) và  Thức (vijñāna). Theo 5 uẩn, sắc pháp thì có 1, còn tâm pháp có 4. Mục đích pháp quán về năm uẩn này là ly đoạn xa lìa các pháp, quán các pháp là vô ngã. Hễ người nào chấp 5 uẩn là ngã là trường tồn bất biến, cũng đồng nghĩa người đó đang thọ khổ, không trách ai được.

Sáu đại (sáu yếu tố phổ quát): Đất, nước, gió, lửa, không và thức. Sắc pháp có đến 5, mà tâm pháp duy chỉ có 1. Điều này chứng tỏ cho biết đối với người mê, tham đắm vật chất luôn sâu nặng. Huy Cận nói: “Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp, chớ giận chi những kẻ mất thiên đường!”

Mười hai xứ

12 xứ là gì? 6 căn + 6 trần = 12 xứ. Xứ ở đây nghĩa là nơi chốn (S. Ayatana ; E. Local) tức là nơi để cho 12 loại thể tướng nương tựa.Trong hệ thống kinh Nguyên thủy gọi sáu căn là sáu nội xứ (còn được gọi là, “các cơ quan, bộ phận”, “các cánh cổng”, “các cánh cửa”, “các sức mạnh”), sáu trần là sáu ngoại xứ (các đối tượng của giác quan), xem biểu đồ.

Hết thảy các pháp trong thế gian đều nương vào 12 xứ này để tìm hiểu và nhận thức về chúng, trong chúng chỉ có 12 xứ mà không tồn tại cái ta riêng biệt. Bởi chúng là duyên sinh, mà cái gì duyên sinh cũng đồng nghĩa là vô ngã.

Còn tiếp…

Tham khảo & chú thích

[1] Các cấp độ nhận thức: Tưởng tri(Sannājānāti), Thắng tri (Pariññā),  Thức tri (Vijānana), Tuệ tri (Paññā), Liễu tri (Abhiññā) . Trong kinh Trung Bộ I, 1- Pháp Môn Căn Bản (Mùlapariyàya sutta), Thế Tôn nói có đến 4 hàng người: Phàm Phu = Tưởng tri. Hữu học = Thắng tri. A-la-hán = Thắng Tri . Phật = Liễu Tri.

[2] 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患?

[3]  Chư Hành vô thường; chư Pháp Vô ngã; Niết-bàn Tịch tịnh.

[4]  Xem thêm kinh Trung Bộ 1 (Majjhima nikàya), 10 – Kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta).

Phật Thừa Tông Yếu Luận