BÀI 8: Nguyên Thủy Phật Giáo (Phật Pháp Tiểu Thừa) (phần 2)
(Tiếp theo)
* Mười tám giới
Xem đồ biểu
Giới ở đây có nghĩa là Giới biệt, khi nói đến 18 giới, tức là bao gồm tất cả các pháp thế gian, trong đó phân chia ra, tâm pháp có 8 loại (1. Nhãn thức. 2. Nhĩ thức. 3. Tỷ thức. 4. Thiệt thức. 5. Thân thức. 6. Ý thức. 7. Mạt-na thức. 8. A-lại-da thức), sắc pháp có 11 loại (1. Nhãn (cakhus), 2. Nhĩ (shrotra), 3. Tỷ (ghrana), 4. Thiệt (jihva), 5. Thân (kaya), 6. Sắc (rupa), 7. Thanh (shabda), 8. Hương (ghanda), 9. Vị (rasa), 10. Xúc (sprashtavya), 11. Pháp Xứ Sở Nhiếp Sắc (dharmayatanikani rupani), vì pháp trần gồm thông cả tâm và sắc.
Kinh Lăng nghiêm nói: “Phục thứ A-nan, vân hà thập bát giới bổn Như Lai tạng diệu chân như tánh?”[1] Nghĩa là: Lại nữa, A-nan, thế nào mà 18 giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?
Vậy, mười tám giới là những gì? Là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; cộng thêm sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Cả ba nhóm gộp lại thành 18 giới.
Sáu căn kết nối với sáu trần, giữa hai cái nầy phát sinh ra sáu thức. Thức được định nghĩa như là tạo nên sự phân biệt, (đã nói thức là có sự phân biệt); Căn (các giác quan) được xem là nơi các chức năng tri giác ấy phát xuất, nó có gốc là thân thể của chúng ta. Trần (cảnh trần, đối tượng) được định nghĩa như vậy là do phẩm tính của nó là nhiễm ô. Nó không thanh tịnh, nên nó làm nhiễm ô bản tính của sáu căn. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì các thức sinh khởi. Mắt thấy sắc liền sinh khởi phân biệt như đẹp hoặc không đẹp. Khởi tâm thích hoặc không thích hình sắc ấy, nên có sự phân biệt. Ở tai cũng như vậy: nghe tiếng êm dịu hoặc không êm dịu, hoặc thích nghe hoặc không thích nghe âm thanh ấy. Khi sinh khởi tâm phân biệt như vậy được gọi là nhĩ thức. Mũi ngửi được mùi thơm và mùi không thơm cũng tương tự gọi là tỷ thức. Quý vị có thể thích hương thơm và không thích những mùi hương khác, như vậy là trong quý vị đã sinh khởi tỷ thức. Lưỡi phân biệt được mùi vị. Khi lưỡi (thiệt căn) đi chung với mùi vị (vị trần) liền có sự phân biệt về mùi vị, hoặc là dễ chịu hoặc là ghê tởm – mình có thể thích hoặc không thích, Thân căn đi chung với xúc trần – trơn láng hoặc xù xì, thô ráp hoặc mịn màng, có nhiều dạng cảm giác khác nhau, hoặc ưa thích hoặc không ưa thích. Thân căn đi chung với xúc trần sẽ làm phát sinh thân thức để phân biệt những cảm giác nầy. Ý căn đi chung với pháp trần.
Vậy, năm trần vừa đề cập trên: sắc, thanh, hương, vị, xúc; tất cả đều có sắc tướng biểu hiện. Duy chỉ có pháp trần là không được biểu hiện qua sắc tướng. Chúng không có một biểu tượng nào. Chẳng hạn như nói bình luận về 1 khổ thơ nào đó, thì bằng sự hiểu biết của mình mà diễn giải; hay nhớ nghĩ về việc mà mình mới tiếp xúc vào buổi sáng chẳng hạn. Tuy nhiên, khi ý căn tiếp xúc với pháp trần, tâm ý liền khởi phân biệt, thế nên trong tâm cũng có ý thức phân biệt. Đó là cách mà sáu căn tiếp xúc với sáu trần khiến sinh khởi sáu thức và cùng lập nên 18 giới.
Chúng ta nên biết, vạn pháp vốn không có đầu mối gốc rễ gọi là vô thỉ vô chung, cho nên ly đoạn tham luyến thế gian, quán tất cả các pháp về 5 uẩn, 6 đại, 12 xứ và 18 giới đều là vô thường, khổ, không, vô ngã và bất tịnh để từ đó hành giả – người tu học Phật chúng ta thể nhập pháp tánh chân như. Kinh Lăng Già tuyên thuyết:
“Thế gian ly sanh diệt/ Do như hư không hoa/ Trí bất đắc hữu vô/ Nhi hưng đại bi tâm.” Nghĩa là: Thế gian rời sanh diệt/ Như hoa đốm hư không/ Trí chẳng đắc hữu, vô/ Mà hưng khởi tâm đại bi. Cho nên, nói về tâm là bao trùm cả hư không vũ trụ nầy “tâm bao thái hư lượng châu sa giới”.[2]
Ba cõi
Ba cõi còn gọi là tam giới (S. Triloka) đó là: dục giới (S, P. Kāmaloka, kamadhatu), sắc giới (S. Rupaloka, rūpadhātu) và vô sắc giới (S. Arūpaloka, arūpadhātu) hay gọi khác: cõi hữu hình hữu dục, cõi hữu hình vô dục, cõi vô hình vô dục, chỉ chung cho tất cả chánh báo trong thế gian.
Cõi hữu hình hữu dục là cõi giới ở chung của 5 loài[3] có hình tượng sắc chất và có ham muốn vật chất, nên gọi là cõi hữu hình hữu dục, loài người chúng ta nằm trong cõi giới này. [有形有欲界者,五趣雜居地也,有形質, 有物欲, 故曰有形有 欲,人類亦在其中].
Trong dục giới có sáu loại hữu tình sau: 1. Địa ngục , 2. Ngạ quỷ/quỷ đói, 3. Súc sinh/loài thú, 4. Loài người, 5. A-tu-la, 6. Cõi trời ở cõi dục (lục dục thiên: Trời Tứ thiên vương, Trời Đao lợi, Trời Dạ-ma, Trời Đâu-suất, Trời Hoá lạc, Trời Tha hoá tự tại).
Cõi hữu hình vô dục là cõi giới chúng sanh có hình tướng thanh tịnh, vi diệu, nhưng tâm khôg có sự ham muốn vật chất, thường an trụ trong thiền định, nên cũng được gọi là cõi giới trời thiền. Trong cõi nầy có 4 địa vị sống chung với nhau đó là: ly sanh hỷ lạc, định sanh hỷ lạc, ly hỷ diệu lạc và xả niệm thanh tịnh. [有形無欲界者,其形清淨微妙,其心則無有物欲,常在禪定之中,故亦謂之禪天,離生喜樂位,定生喜樂位,離喜妙樂 位,捨念清淨位].
Tứ Thiền định (4 cõi thiền)
Trời Sơ thiền – ly sanh hỷ lạc, 3 cõi (Trời Phạm thân, Trời Phạm phụ và Trời Đại phạm).
Trời Nhị thiền – định sanh hỷ lạc, 3 cõi (Trời Thiểu quang, Trời Vô lượng quang, Trời Cực quang tịnh = trời Quang âm).
Trời Tam thiền – ly hỷ diệu lạc, 3 cõi (Trời Thiểu tịnh, Trời Vô lượng tịnh, Trời Biến tịnh).
Trời Tứ thiền – xã niệm thanh tịnh, 10 cõi (Trời Vô vân, Trời Phúc sinh, Trời Quảng quả, Trời Vô tưởng, Trời Vô phiền, Trời Vô nhiệt, Trời Thiện kiến, Trời Sắc cứu kính, Trời Hoà âm, Trời Đại tự tại).
Cõi vô hình vô dục, cõi nầy đều không có hình tướng vật chất, tâm thường vắng lặng thanh tịnh. Chúng sanh sống ở cõi giới này có trời không vô biên xứ, trời thức vô biên xứ, trời vô sở hữu xứ, trời phi phi tưởng xứ. [無形無欲界,形 質皆空,心靜恆一,生之者有空無邊處天,識無邊處天,無所有處天, 非非想處天].
Nên bich, chúng sanh trong ba cõi nầy vẫn còn chịu sự chi phối cảnh luân hồi sanh tử khổ đau, chưa phải là Niết-bàn cứu cánh.
Năm loài: thiên, nhân, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Chín địa
Chín địa (cửu địa) còn gọi là cửu hữu, cửu chúng sanh cư, là 9 cấp bực, 9 đẳng cấp; địa tức là địa vị, thứ cấp; tức là chín cõi của loài hữu tình an trú, bao gồm như sau:
Dục giới ngũ địa: Còn gọi là Ngũ thú tạp cư địa (hoặc tạp trụ địa). Cõi của năm loài hữu tình sống chung lẫn nhau: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Nhơn, Thiên (thuộc cõi Dục).
Ly sanh hỷ lạc địa: Thuộc trời Sơ thiền của cõi Sắc. Sự hỷ lạc có được do lìa các pháp dục ác ở cõi Dục.
Định sanh hỷ lạc địa: Thuộc trời đệ nhị thiền của cõi Sắc. Cảnh giới do định mà phát sanh hỷ lạc thù thắng.
Ly hỷ diệu lạc địa: Thuộc trời đệ tam thiền của cõi Sắc. Cảnh giới an lạc thù thắng vi diệu do lìa trạng thái hỷ thô-trọng ở nhị thiền cõi sắc mà được diệu lạc ở tam thiền.
Xả niệm thanh tịnh địa: Thuộc trời đệ tứ thiền ở cõi Sắc. Cảnh giới thanh tịnh địa do lìa bỏ trạng thái hỷ lạc của các địa trên.
Không vô biên xứ địa: Thuộc tầng trời thứ nhất của cõi vô sắc, cảnh giới chứng đắc tánh hư không vô biên tự tại, do lìa tánh vật chất của cõi sắc.
Thức vô biên xứ: Thuộc tầng trời thứ hai của cõi vô sắc. Cảnh giới mà thức đạt được rộng rãi không ngằn mé.
Vô sở hữu xứ địa: Thuộc tầng trời thứ ba của cõi vô sắc. Cảnh giới tư tưởng dứt bặt, do lìa tánh động của không vô biên xứ và thức vô biên xứ.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa: Thuộc tầng trời thứ tư (trời hữu đảnh) của cõi vô sắc. Cảnh giới vắng lặng do lìa tưởng và vô tưởng, lìa cả chấp có chấp không.
Chín địa trên người ta thường gọi là chín phương trời, còn mười phương Phật là chúng sanh trong lục đạo (gồm luôn chín địa trên) và Tứ Thánh (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn) hợp chung gọi là mười phương Phật.
Ba thời
Thời gian được chia làm 3: quá khứ, hiện tại và tương lai gọi là ba đời (3 thời). Chúng sinh nương vào những nghiệp gây ra trong quá khứ để thọ nhận quả báo trong hiện tại, nương vào nghiệp trong hiện tại (Hoặc là một phần nghiệp tạo ra trong quá khứ) để phải nhận lãnh những quả báo trong tương lai, cứ như vậy mà sống và chết biến đổi liên tục không ngừng, tương tục triển chuyển.
Việc làm của bản thân ta, cho dù thiện hay bất thiện, đẹp hay xấu đều do túc nghiệp, tác nhân của quá khứ, mà việc quá khứ đã qua, còn tương lai thì mơ mộng ảo huyền chưa tới, chỉ có pháp hiện tại ngay đây và bây giờ (now and here), nên chúng ta hãy quán chiếu nhất thiết pháp vô ngã, ly tham dục chứng chân như. Kinh Trung Bộ (tập III), 133-Kinh Ðại Ca-chiên-diên Nhất dạ hiền giả (Mahà-kaccàna-bhaddekaratta-sutta), đức Phật dạy:
“Quá khứ không truy tìm/ Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,/ Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,/ Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển/ Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm/ Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được/ Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm/ Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền/ Bậc an tịnh, trầm lặng.”
c. Hiểu rõ thế gian là giả tạm, quyết chí tu tập diệt trừ
Thực tế chúng ta đã chứng kiến bao nhiêu cảnh sanh ly tử biệt, đại dịch Covid-19 vừa qua đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng người, biết bao các em trẻ thơ dại phải mồ côi cha mẹ, người thân của mình, thống kê trên thế giới có hơn 5 triệu người chết vì Covid-19, riêng tại đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, số ca tử vong Covid-19 hơn 41 nghìn người. Cho nên, chúng ta phải liễu ngộ cuộc đời nầy là mong manh tạm bợ, vô thường là bọt bèo bóng mây chìm nổi, để quyết chí dụng công tu học chánh pháp, nguyện rằng: “Sanh sanh dữ Phật vi quyến thuộc, thế thế bồ đề kết thiện duyên”. Đều là thân bằng quyến thuộc với nhau, là công dân gương mẫu số 1, nơi thế giới Tịnh độ trang nghiêm nơi Liên trì hải hội, Di Đà Như Lai. Để thể hiện thực sự được điều đó, chúng ta phải khuyên nhau siêng năng niệm Phật, lạy Phật, làm tất cả những gì sức lực, trí lực mà chúng ta có thể. Muốn trang nghiêm Tịnh độ, thì trước hết chúng ta phải trang nghiêm bản thân mình (giữ giới thanh tịnh), trang nghiêm nơi chúng ta đang ở. Giới pháp trang nghiêm thì thể nhập Thiền định 1 cách dễ dàng, có giới có định thì phát sanh 1 loại trí tuệ sắc bén đoạn trừ chặt đứt phiền não. Như người làm ruộng, nếu không đắp đê ngăn bờ thì nước dễ xâm nhập chảy vào làm hư hại giống mạ đang gieo cấy.
III. Phần tu hành, đoạn ly tham ái
Kinh Pháp cú nói: “Do ái sinh sầu ưu/ Do ái sinh sợ hãi/ Ai thoát khỏi tham ái/ Không sầu, đâu sợ hãi?.”[4]Người học Phật chúng ta nên biết, nguồn gốc của khổ đau bắt nguồn từ tâm ái nhiễm, tham muốn. có thơ rằng: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm chưa dễ đãai quên”; những việc gì chúng ta không làm không tạo tác, không suy nghĩ thì không hà cớ gì mà phải sợ hãi, lo lắng. Cái gì cũng phải có nhân tức là hạt giống (bīja) được tác động bởi duyên như các yếu tố đất, nước, phân bón, thuốc tăng trưởng… và tạo ra quả.
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói:“Do nhân duyên ái luyến, ắt phải sanh ra lo rầu, khổ não. Do lo rầu, khổ não, ắt phải khiến cho chúng sanh trở nên già yếu. Khổ vì phải lìa xa chỗ yêu mến là nói khi mạng sống đã hết. Thiện nam tử! Do nơi sự biệt ly mà có thể phát sanh đủ mọi khổ não nhỏ nhặt khác…”[5]
Do đó, truy nguyên về đầu mối của sanh tử luân hồi ở nơi đâu? chúng ta không thể tìm ra được đầu mối nút thắt đó, bởi vì sao? Chúng ta khong phải hiện diện trong 1 đời này, mà sự hiện hữu của chúng ta được kết nối từ nhiều đời vô lượng kiếp, rồi trải qua nhiều đời kiếp đó, có khi chúng ta làm người hoặc làm các loài vật trong 6 nẻo luân hồi; chúng ta không thể biết và nhớ được kiếp trước mình là ai, tôi là ai mà còn trần gian thế? vì cách ấm 1 kiếp là chúng ta tùy nghiệp mà sanh. Liễu tri về cuộc đời thế gian này vốn là huyễn mộng, cho nên chúng ta nghiệp vẫn cứ trả, tu vẫn cứ tu. Tu theo con đường Chánh Đạo, Chánh kiến; mà không đi thì thôi, hễ xác định đi thì cũng có ngày đến đích, ví như 1 khúc gỗ trôi sông, không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục bên trong, như vậy khúc gỗ sẽ hướng và trôi ra biển cả.[6] Giải thích về vòng luân hồi kiếp nhân sinh nầy, đức Phật đã tuyên thuyết về 12 mắt xích của sự sống (thập nhị nhân duyên, 12 chi phần nhân duyên, 12 hữu chi).
a. Quán 12 nhân duyên
12 hữu chi, chữ “hữu” (P. Bhava) là chỉ cho hết thảy mọi sự vật hiện tượng trong 3 cõi, 5 loài, cửu địa; còn chữ “chi” tức là chi phần, nghĩa là mọi sự sanh tử lưu chuyển đều nương vào sự tuần hoàn không dứt của 12 chi phần này, nên được gọi là 12 hữu chi; và cũng chính nhân duyên của sanh tử lưu chuyển nên cũng gọi là 12 nhân duyên. Để giải thích về 12 nhân duyên nầy, chúng ta phải lấy 3 đời 2 tầng nhân quả – tam thế lưỡng trùng nhân quả để thuyết minh, xem đồ biểu:
Trong 3 đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) 2 tầng nhân quả, nhân quá khứ, quả hiện tại và nhân hiện tại quả tương lai.
Nhân quá khứ: vô minh, hành; quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
Nhân hiện tại: ái, thủ, hữu; quả tương lai: sanh, lão tử.
12 nhân duyên được giải thích: duyên hợp lại là sinh, duyên tan là diệt. Quán theo chiều thuận, nhân quá khứ sanh quả hiện tại (tầng nhân quả thứ nhất), và nhân hiện tại sanh quả tương lai (tầng nhân quả thứ hai). Đây là chiều lưu chuyển. Nên liễu tri trong mỗi tầng nhân quả đều có Hoặc – Nghiệp – Khổ.
Phần đông các nhà nghiên cứu về Phật học thường theo chiều lưu chuyển của mười hai nhân duyên để chứng minh và giải thích luân hồi, mà chủ yếu làm thế nào liễu thoát sinh tử. Cho nên mới có chiều ngược lại (hoàn diệt), từ quả đến nhân: Mọi người đều già chết (Lão tử); vì sao có già chết? vì có sanh. Cứ đi ngược lần lên đến tận cùng, ta hiểu rõ bản chất của sanh tử là vô minh. Đây là chiều hoàn diệt. Vậy muốn giải quyết vấn đề sinh tử, phải giải quyết nơi nhân. Chúng ta thấy đức Phật đã khéo dùng phương pháp đi ngược từ quả đến nhân, lần đầu tiên khi giảng về Tứ Diệu Đế; cuộc đời là khổ (Khổ – quả); Tìm hiểu vì sao có khổ (Tập nhân); trừ hết nguyên nhân gây khổ sẽ có an lạc giải thoát (Diệt – quả); Các phương pháp để đạt được giải thoát (Đạo – quả). Nguyên nhân của khổ tức Tập – nhân trong Tứ Diệu Đế cùng tương đồng với ái, thủ, hữu trong 12 nhân duyên.
Như vậy, nói đoạn dục khử ái là làm cách nào? trở lại câu Pháp cú nói: “Do ái sinh sầu ưu/ Do ái sinh sợ hãi/ Ai thoát khỏi tham ái/ Không sầu, đâu sợ hãi?.” Thế thì sợ hãi, sầu ưu là do tham ái, khát ái gây ra. Ái là nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Do đó, theo 12 nhân duyên, NHÂN trong hiện tại đó là ÁI, THỦ làm VÔ MINH (nghiệp) và HỮU là sự sanh tử của đời tương lai, suy cho cùng những khổ báo trong đời tương lai cũng không khác gì đời hiện tại, bởi sự sanh tử của tương lai cũng đều do THỨC mà có DANH SẮC, do DANH SẮC mà có LỤC NHẬP, do LỤC NHẬP nên có XÚC, do XÚC nên có THỌ…, cứ như thế xoay vần triển chuyển mãi bất khả cùng tận, như bánh xe lăn tròn trên con đường vạn nẻo luân hồi.
Có thể biết rằng, sự có mặt trong đời hiện tại là VÔ MINH (tức là ái và thủ) và HÀNH (tức là hữu) của đời quá khứ, để mà sinh ra đời tương lai, ắt do ÁI và THỦ (tức vô minh) và HỮU (tức hành) trong đời hiện tại. Vì vậy muốn thoát ly sanh tử phải đoạn tận ÁI và THỦ, một khi ÁI và THỦ đã đoạn trừ rồi thì HỮU sẽ không có cơ sở căn cứ nào để sinh khởi nữa, và tất cả NGHIỆP HOẶC mê mờ phiền não nhiễm ô đều đoạn sạch hết không còn, vậy đã diệt trừ hết cái nhân sanh tử của vị lai mà chứng đắc Niết-bàn an vui giải thoát.
Suy cho cùng, đoạn trừ ÁI và THỦ là cái cần thiết phải thực hiện để chúng ta liễu thoát sanh tử.
Còn tiếp…
Tham khảo và chú thích
[1] 復次阿難, 云何十八界, 本如來藏妙真如性?
[2] Kinh Hoa Nghiêm.
[3] Ngũ thú tạp cư địa (五趣雜居地): thiên, nhân, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[4] Kệ 212.
[5] Kinh Đại Bát Niết Bàn (tập 2), Nxb Tôn giáo, 2020, tr. 600.
[6] Xem thêm Tương Ưng Bộ Kinh, Thiên sáu xứ, Phẩm rắn độc. 200. IV. Khúc gỗ.