Ý Nghĩa Hình Tượng Lá Rụng Trong Tác Phẩm Hồn Bướm Mơ Tiên Qua Lăng Kính Phật giáo – Nguyên Định

A. Dẫn nhập

Trong lĩnh vực sáng tác văn học và nghệ thuật, rất nhiều văn nghệ sĩ thành danh chỉ với một tác phẩm văn học xuất sắc, hay một nhạc phẩm sâu lắng truyền cảm dễ đi vào lòng người và trở thành bất hủ, hay một bộ phim mang dấu ấn lịch sử khó phai mờ trong lòng khán giả qua bao thế hệ, và nhà văn Khái Hưng đúng là một văn sĩ như vậy. Tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” là tác phẩm đầu tay của ông, ra đời vào năm 1933, cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn.[1] Mặc dù chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy, nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê, hâm mộ, cũng được coi là tác phẩm thành công nhất của ông. Một truyện tình lãng mạn tuyệt vời, bay bướm, điều này làm cho chúng ta liên tưởng đến các truyện ngắn của Ivan Tourgueniev,[2] giá trị nghệ thuật rất cao, tâm lý nhân vật sâu sắc thể hiện sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và lòng mộ đạo ở nội tâm một người đệ tử xuất gia. “Hồn bướm mơ tiên” là một trong những tác phẩm giá trị nhất, đã làm cho tên tuổi Khái Hưng sáng rực lên trong vườn hoa văn học nghệ thuật nước nhà, không chỉ trong giai đoạn từ 1930 – 1945, mà cho đến nay tác phẩm này vẫn có một chỗ đứng vững trong lòng độc giả. Mặc dầu đã trải qua hơn 80 năm kể từ khi tác phẩm được Khái Hưng khai sinh, có thể nói cho đến hôm nay, các thế hệ lão ấu, khi có duyên thưởng thức tác phẩm này, đều thấy được những giá trị văn học nghệ thuật cao đẹp trong truyền thống văn hóa Việt Nam hòa cùng văn hoá Phật giáo trong sáng, cao thượng qua câu chuyện tình lãng mạn nên thơ giữa Ngọc và Lan đã vô tình nảy nở nơi cửa Phật từ bi.

Theo những nhà nghiên cứu văn học, văn học Việt Nam từ 1930 – 1945 là giai đoạn chuyển mình và hình thành nên một phong cách sáng tác văn học mới, mang tính phóng khoáng theo trào lưu lãng mạn trữ tình, được ảnh hưởng không nhỏ từ nền văn học, văn hóa phương Tây. Trong bối cảnh đất nước đang là thuộc địa của Pháp thì Khái Hưng là một thanh niên trẻ thuộc dòng dõi nho quan, lại được học trường Tây, vì vậy tác phẩm “Hồn Bướm Mơ Tiên” ít nhiều đã chịu ảnh hường từ nền văn học lãng mạn này. Tuy nhiên, ở đây bằng sự cảm nhận của mình, người viết chỉ muốn nói rõ hơn về “điểm nhấn ngôn ngữ” trong tác phẩm này, đó là hai từ “Lá Rụng”, bằng cách nhìn của Phật giáo và phân tích ngôn ngữ văn học theo quan điểm Phật học, nhằm thấy được trọn vẹn chủ ý của tác giả muốn gởi đến chúng ta. Vì những lý do đó, nên người viết tìm hiểu về “Ý nghĩa hình tượng Lá Rụng trong tác phẩm Hồn Bướm Mơ Tiên qua lăng kính Phật giáo” cho bài viết này. Đồng thời, giúp cho chúng ta thấy được giá trị cuộc sống không phải đi theo một chiều hướng nhất định, mà nó luôn biến chuyển đổi thay theo định luật tuần hoàn duyên sinh vô thường – vô ngã, sự có mặt của khổ đau và trạng thái đạt đến sự vắng lặng tịch tịnh Niết-bàn.

Tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên”còn nói lên tâm hồn cao thượng của tác giả. Cao thượng ở chỗ là Khái Hưng không những am hiểu cuộc sống đời thường mà còn thấy được quy luật sống đúng theo tinh thần của Phật giáo, một tình yêu cao thượng là không phân biệt giai cấp, địa vị mà luôn hòa đồng đến mọi người, tôn trọng và bảo vệ lý tưởng cho nhau.

Vâng, bằng sự cảm nhận của bản thân, để thấy được giá trị tác phẩm được nhìn qua lăng kính của Phật giáo như thế nào? Lần lượt chúng tôi sẽ được trình bày các phần dưới đây.

B. Nội dung

Khi nói đến nền văn học Cổ Điển Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng ta không thể không nói đến tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên”, một tác phẩm đầu tay của Khái Hưng, đã thể hiện một bút pháp già dặn của một tác giả lành nghề, đã làm cho người đọc cảm nhận được cuộc sống và tình yêu là nguồn động lực thúc đẩy con người luôn tiến về phía trước, cùng nhau xây dựng cho xã hội con người ngày càng hạnh phúc an vui. 

Nghe qua tựa đề “Hồn bướm mơ tiên”, làm cho con người có sự thoát tục mặc dù đang sống ở cõi trần. Phải chăng tác giả đã hòa quyện mình trong thời cuộc, hiểu được lòng người để cho ra đời tác phẩm mà làm cho người đọc càng đọc càng thấy thích thú, có sự lôi cuốn đam mê. Bởi lẽ một nhà văn giỏi, một tác phẩm hay bao giờ cũng kiện toàn bốn yếu tố: thời đại, tác giả, tác phẩm và người đọc, Khái Hưng đã thể hiện được điều đó. Nơi đây, trước khi trình bày hình ảnh  “Lá Rụng” qua cái nhìn của Phật giáo, xin được điểm qua vài nét về tác giả và tác phẩm.

I. Vài nét về tác giả và tác phẩm

1.1. Vài nét về tác giả

Khái Hưng (1896 – 1947) tên thật là Trần Khánh Giư. Bút hiệu khác Nhị Linh, quê làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Con trai Tuần phủ Trần Thế Mỹ, anh ruột Trần Tiêu. Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut). Sau khi đậu tú tài Pháp, Khái Hưng dạy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh. Khái Hưng kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường Triệu làm con nuôi từ nhỏ: Trần Khánh Triệu.

Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ báo còn do Phạm Hữu Ninh hiệu trưởng Thăng Long chủ trương. Năm 1932, Nhất Linh mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự lực văn đoàn. 1933, xuất bản Hồn bướm mơ tiên. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả. Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất nổi tiếng.

Lòng ta chôn một khối tình

Tình trong giây phút mà thành thiên thu

Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu

Mà người gieo thảm như hầu không hay…

Trong thời gian Đệ nhị thế chiến (1939 – 1945), giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đại Việt dân chính Đảng thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra tờ Ngày nay kỷ nguyên mới. Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đến năm 1947 Khái Hưng qua đời.

1.2. Tóm lược tác phẩm

“Hồn bướm mơ tiên” xuất bản năm 1933 là tiểu thuyết lãng mạn mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng. Câu chuyện được kể rằng: Ngọc là sinh viên Trường canh nông. Trong dịp nghỉ hè về ở với ông bác là Sư tổ Chùa Long Giáng. Chùa có một chú tiểu tên Lan. Thấy Lan là người có học, tính tình hòa nhã, Ngọc thân ngay. Nhưng thực sự ra Lan là 1 người thân phận nữ nhi, liễu yếu đào tơ, cha mẹ mất sớm, ở với chú bị chú ép gả chồng, mà Lan thì có tâm hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng của mẹ, nên Lan từ giả gia đình, cải dạng nam trang đến chùa Long Giáng xin xuất gia học Phật. Khi Ngọc phát hiện Lan là nữ, chàng từ tình bạn chuyển sang tình yêu. Vì Lan quyết chí tu hành như đã hứa lúc mẹ lâm chung, cô khước từ tình yêu của Ngọc. Một câu chuyện tình “dưới bóng từ bi cửa Phật ”.

Cuốn tiểu thuyết được đăng nhiều kỳ trên báo Phong hóa của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đã tạo ra một uy tín lớn và được nhiều độc giả nhiệt liệt hoan nghênh, khích lệ các nhà văn của nhóm sáng tác. Không chỉ thế mà tiểu thuyết “Hồn bướm mơ tiên” đã giành được vị trí hàng đầu trong phong trào văn học suốt một thời gian dài. Cho đến hôm nay, âm vang của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn vẫn còn đọng trong ký ức của độc giả, trong đó được cảm tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết “Hồn bướm mơ tiên”.

Mỗi con người sống ở đời luôn có một cái nhìn, cảm nhận khác nhau. Đến với hình tượng chiếc “lá rụng” được nhìn nhận qua lăng kính Phật giáo mà tác giả đã đề cập trong tác phẩm ở phần IX, cho chúng ta thấy được, con người một khi đã có được chánh niệm tĩnh thức về cuộc đời, lúc đó mới cảm nhận những hạnh phúc hay nỗi niềm không như ý đang xảy ra xung quanh chúng ta. Qua lăng kính Phật giáo giúp cho chúng ta thấy được hình tượng “lá rụng” luôn liên quan đến nhiều vấn đề trong cuộc sống thực tại.

II. Ý nghĩa của hình tượng Lá Rụng trong tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” qua lăng kính Phật giáo

Trong phần IX của tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” chúng ta dễ dàng nhận ra một hiện tượng lặp đi lặp lại nhiều lần hai từ “lá rụng”, có tổng cộng là 9 lần, đây là một điểm nhấn ngôn ngữ quan trọng và hoàn toàn có chủ ý của tác giả, muốn nói lên tư tưởng chủ đạo của Phật giáo trong phần cuối này của tác phẩm, đó là gì? là nói đến sự luân hồi của vạn vật, sự vô thường vô ngã giả tạm và sinh tử của kiếp người, những nỗi khổ niềm đau của con người trong cuộc sống thế nhân, và cuối cùng là trở về cảnh giới Niết-Bàn tịch tĩnh như một cứu cánh cho con người sau khi trải qua hành trình tu chứng. Dưới đây xin được tạm trích lược những đoạn văn có hai từ lá rụng”. 

Lần thứ nhất: “Lan ngồi sưởi dưới ánh nắng, thì thầm đọc kinh, thỉnh thoảng lại đặt quyển sách xuống ngơ ngác nhìn. Tiếng “lá rụng” trên vườn sắn như có mãnh lực gì khiến Lan ôn lại những đời dĩ vãng…”

Lần thứ hai: “Lan nhắm mắt, trong trí lại tưởng tượng ra cái cảnh “lá rụng” khi đi sang chùa Long Vân…”

Lần thứ ba: “Cái cảnh bên bờ suối mấy gốc thông già, chiều hiu hắt, lá thông khô, theo dòng suối trôi đi… lá rụng! ”

Lần thứ tư: “Chỉ ít lâu là ảnh ai đã mờ hẳn trong trí nghĩ. Rồi sự buồn, nhớ đổi ra mừng vui. Trong lòng, Lan hớn hở rằng đã qua một bước khó khăn trên con đường tu hành. lá rụng!”

Lần thứ năm: “Lan lạnh lùng đáp: giá lần này ông cũng về ngay thì phải. Ngọc không để ý đến câu trả lời của Lan, lại gần đứng tựa vào cây chấn, ngay chỗ Lan ngồi, nhìn Lan không nói. lá rụng !”

Lần thứ sáu: “Mặt trời gần lặn sau đồi, mặt trời lạnh lẽo mùa đông. Gió chiều thoảng qua. “lá rụng!” Lan bừng mắt, thở dài…”

Lần thứ bảy: “Dưới chân đồi, mấy đứa trẻ mục đồng cưỡi trâu về chuồng, cười đùa vui vẻ, trên cây chẩu đàn chim sẻ đuổi nhau, tiếng kêu chiếp chiếp. “lá rụng !” Lan đứng phắt dậy sẽ đẩy bạn ra: không bao giờ thế được !”

Lần thứ tám: “Mặt trời đã lặn sau trời tây. Vạn vật nhuộm màu ảm đạm. lá rụng !”

Lần thứ chín: “Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đướng đất quanh lượt khúc dưới chân đồi. Gió chiều hiu hiu….. lá rụng !”

2.1.“Lá Rụng” với học thuyết “luân hồi sinh tử” trong Phật giáo

Trong nhà Thiền, hiện tượng lá rụng là một hình ảnh biểu cảm, giàu hình tượng và đa nghĩa, đã có những vị Thiền sư khi tọa thiền dưới cội cây nào đó, khi vô tình nhìn những chiếc lá vàng úa rơi rụng, bỗng hốt nhiên ngộ lẽ luân hồi của vạn vật, vì chuyện lá rụng về cội hay nước chảy về nguồn là lẽ tự nhiên của tạo hóa, và người tu đạo cũng vậy mà thôi, chẳng khác gì chiếc lá vàng kia, một ngày nào đó rồi cũng đến lúc xả bỏ báo thân mà trở về cảnh giới “Vô trụ xứ Niết-bàn”.

Lan ngồi sưởi dưới ánh nắng, thì thầm đọc kinh, thỉnh thoảng lại đặt quyển sách xuống ngơ ngác nhìn. Tiếng “lá rụng” trên vườn sắn như có mãnh lực gì khiến Lan ôn lại những đời dĩ vãng…”[3]

Với hai từ lá rụng trong đoạn văn trên, Khái Hưng như đã muốn nói đến thuyết luân hồi trong Phật giáo, ít nhất cũng là muốn nói đến “những đời dĩ vãng” của nhân vật Lan, vì có sinh nên mới có tử, là đồng nghĩa với sự luân hồi. Thật vậy, trong các phần trước của tác phẩm, Khái Hưng đã có nhắc đến quá khứ bất hạnh của Lan. Lan là một người thiếu nữ vừa mới lớn, đã sớm mồ côi Cha lẫn Mẹ và sống với người Chú ruột, vì không muốn bị Chú ép duyên và cộng thêm lời hứa với Mẹ trước lúc lâm chung, mà Lan đã cải trang thành nam nhân để đến chùa Long Giáng quy y tu học. Đối với Lan, cái quá khứ bất hạnh kia dường như đã trôi vào dĩ vãng từ lâu, trước mắt Lan là một cuộc sống tu hành, tuy đơn sơ đạm bạc, rau cháo muối dưa mà lại yên bình và thanh thoát đến lạ thường, Lan chỉ chuyên tâm tu học Kinh Phật để chuyển hóa cái duyên nghiệp ái tình đã tạo nên hình hài một chú tiểu Lan có hoàn cảnh bất hạnh như thế, và để cho những nỗi muộn phiền thuộc về dĩ vãng kia rụng rơi theo tháng năm. Nhưng chuyện tu hành không đơn giản như chúng ta từng nghĩ, điển hình là sau hơn hai năm miệt mài tu học đưới mái chùa Long Giáng, lần đầu tiên trong đời, Lan mới chợt nhận ra cơn dông bão ái tình thật dữ dội, và nếu không có sự cố gắng vượt qua chính mình thì Lan không dễ gì được tiếp tục bước đi trên con đường đã chọn…

“ Lan nhắm mắt, trong trí lại tưởng tượng ra cái cảnh “lá rụng” khi đi sang chùa Long Vân…[4]

 Khi Lan vâng lời Sư cụ mang quà sang biếu cho Sư ông trụ trì Chùa Long Vân thì có Ngọc cùng đi. Vì đường xa nên đành trú lại Chùa qua đêm, vì Ngọc cố tình khám phá sự thật có phải chú Lan là gái giả trai hay không? với tâm tình ngây thơ trong sáng, Lan đã vô tình làm lộ bí mật giả trai của mình, khi Ngọc biết được chính xác Lan là gái giả trai thì càng đem lòng yêu Lan tha thiết hơn.  Trong hoàn cảnh như vậy, Lan vô cùng hoảng hốt và sợ hãi, lo lắng cho thiện duyên tu hành của mình với ngôi Chùa Long Giáng này phải rụng rơi trong sự giằng xé tâm thức của cơn bão ái tình, đang nổi lên mãnh liệt giữa hai người. Nhưng trong hoàn cảnh éo le ấy, Lan và Ngọc đã kịp nhìn lại mình, và hứa với nhau những lời cảm thông sâu sắc, làm cho độc giả phải xúc động thật sự. Rồi cơn bão ấy cũng qua đi để lại cho Lan một nỗi ám ảnh khó quên. Nhưng ở đây Khái Hưng đã dùng từ lá rụng để ẩn chỉ một trạng thái tâm thức đang hồi tưởng lại sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, tựa như những phiền muộn đã trôi đi như những chiếc lá rụng rơi theo dòng thời gian của tâm thức.     

2.2. “Lá Rụng” với học thuyết “vô thường, vô ngã ” trong Phật giáo

Trong ba tạng Kinh điển của nhà Phật, “vô thường, vô ngã” là một trong những pháp ấn rất quan trọng, vì vậy trong tác phẩm đậm chất Phật giáo này, Khái Hưng cũng đã khéo léo dùng từ “lá rụng” để nói đến học thuyết này.

“Cái cảnh bên bờ suối mấy gốc thông già, chiều hiu hắt, lá thông khô, theo dòng suối trôi đi… “ lá rụng !. từ đó đến nay, đã qua sáu tháng, Lan trải bao sự buồn, nhớ, mừng,  lo…”[5]

 Trong đoạn văn trên, Khái Hưng không chỉ mượn từ “lá rụng” để nói đến sự vận hành xoay chuyển của thiên nhiên vạn vật “lá thông khô, theo dòng suối trôi đi… “ lá rụng !”, mà còn nói đến trạng thái vô thường trong tâm thức của Lan. Bao sự “buồn, nhớ, mừng, lo” là trạng thái của vọng tâm, thay đổi liên tục không ổn định, không ngừng nghĩ bởi sự ảnh hưởng trực tiếp từ thiên nhiên ngoại cảnh, đoạn văn tiếp theo còn cho chúng ta thấy rõ hơn tâm thức là vô thường, không có một trạng thái nào là ổn định.

“Chỉ ít lâu là anh ta đã mờ hẳn trong trí nghĩ. Rồi sự buồn, nhớ đổi ra mừng vui. Trong lòng, Lan hớn hở rằng đã qua một bước khó khăn trên con đường tu hành. “lá rụng !”[6]

Hai từ “lá rụng” trong đoạn văn trên, Khái Hưng đã có chủ ý muốn nói đến sự rụng rơi của phiền não ái tình trong tâm thức của Lan, vì “sự buồn, nhớ đã đổi ra mừng vui” nên tâm tình Lan đã trở nên “hớn hở”, không còn ủ rủ, ray rứt, bực dọc, mong ngóng, hồi hộp v.v…, như khi Ngọc vừa rời khỏi chùa Long Giáng, như sự hồi phục sức khỏe của tâm thức sau cơn bạo bệnh do virut ái tình gây nên. Trong ý nghĩ của Lan, đoạn đường nhiều chông gai khó khăn của lộ trình tâm thức Lan đã trải nghiệm vừa qua, đã được Lan bỏ lại phía sau và dấn thân tiến về phía trước. 

2.3. “Lá Rụng” với quan điểm “khổ” trong Phật giáo

Trong hệ thống Kinh điển đồ sộ của nhà Phật, “khổ” là một trong những pháp ấn không kém phần quan trọng, vì vậy mà Khái Hưng đã khéo léo dùng từ “lá rụng” để nói đến quan điểm này của Phật giáo.

“Lan lạnh lùng đáp: giá lần này ông cũng về ngay thì phải. Ngọc không để ý đến câu trả lời của Lan, lại gần đứng tựa vào cây chấn, ngay chỗ Lan ngồi, nhìn Lan không nói. “lá rụng!”[7]

Trong đoạn văn trên tác giả không chỉ nói đến nỗi khổ của Lan và Ngọc phải đấu tranh để chiến thắng bản thân và vượt qua chính mình nhằm dành phần thắng về cho lý tưởng tu hành giải thoát cao thượng của Lan, nhưng cũng đồng thời tác giả đã khéo dùng từ “lá rụng” để chỉ cho niềm hy vọng được thưởng thức mật ngọt ái tình của Ngọc tựa như lá rụng sau câu nói lạnh lùng của Lan.

 “Dưới chân đồi, mấy đứa trẻ mục đồng cưỡi trâu về chuồng, cười đùa vui vẻ, trên cây chẩu đàn chim sẻ đuổi nhau, tiếng kêu chiếp chiếp. “lá rụng !” Lan đứng phắt dậy sẽ đẩy bạn ra: không bao giờ thế được !”[8]

Trong bài thuyết pháp đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, đức Phật có nói đến nỗi thống khổ của con người, con người có rất nhiều nổi khổ, nhưng đại khái được chia làm tám loại khổ cơ bản như sau: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, mong muốn mà không được là khổ, ghét nhau mà gặp nhau là khổ, thân thể ngũ uẩn không sạch là khổ, yêu nhau mà xa nhau là khổ v.v… trong đoạn văn trên, chúng ta thấy rằng Lan đã tỏ thái độ rõ ràng với Ngọc, quyết tâm giữ trọn lời thề với Mẹ và Phật tổ. Tuy nhiên, Lan cũng phải chịu nhiều nỗi dằn vặt và đấu tranh nội tâm quyết liệt với chính mình, cho nên trạng thái tâm thức này của Lan đúng y như lời Phật dạy “yêu nhau mà không đến được với nhau là khổ”. Khái Hưng đã khéo léo dùng từ “lá rụng” trong đoạn văn trên để ẩn chỉ cho mối lương duyên ái tình mãnh liệt của Lan và Ngọc tựa như “lá rụng” sau quyết định dứt khoát của Lan “không bao giờ thế được !”.

“Mặt trời đã lặn sau trời tây. Vạn vật nhuộm màu ảm đạm. lá rụng !”[9]

Khái Hưng quả đúng là một ngòi bút không chỉ giỏi về lột tả tâm lý nhân vật, mà ông còn là một nhà văn tả cảnh thiên nhiên rất tài tình, ông đã dẫn dắt người đọc đi từ tâm trạng vui vẻ nhộn nhịp của làng quê Bắc bộ khi đang vào mùa thu hoạch lúa, cùng với sự bỡn cợt trêu ghẹo chàng sinh viên Ngọc bằng những lời lẽ vần điệu có văn có thơ của những thiếu nữ đang gặt lúa trên nương trong phần đầu của tác phẩm.

“Hỡi anh đi đường cái quan,

 Dừng chân đứng lại em than vài lời.
Đi đâu vội mấy anh ơi,

Công việc đã có chị tôi ở nhà.”[10]

Khi đến cuối tác phẩm, tác giả lại đưa tâm trạng người đọc về trạng thái bi thương đồng cảm với nỗi buồn của Lan và Ngọc, với vài nét tả thực cảnh thiên nhiên buồn ảm đạm.   

2.4.“Lá Rụng” với khái niệm “Niết-bàn” trong Phật giáo

Sau khi trải qua bao thử thách cam go, Lan đã đủ nghị lực để xa lánh chốn trầm luân trong tâm thức của mình, và lại tiếp tục dấn bước trên con đường tu đạo. Đức Phật từng nói:

“Dầu tại bãi chiến trường,

Thắng hàng ngàn quân địch,

Tự thắng mình tốt hơn,

 Thật chiến thắng tối thượng”[11]

 Và ở đây Lan được xem như một chiến sĩ dũng cảm đã vượt qua những mật ngọt cám dỗ của tình yêu lứa đôi, dù trái tim đã hơn một lần rung động dữ dội vì mối tình đầu chớm nở của người thiếu nữ đang độ xuân thì, nhưng cuối cùng Lan đã vượt qua chính mình, và vẫn là người nữ tu xuất gia thoát tục, giữ vẹn được lời thề với Mẹ và với đức Phật từ bi.

“Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh lượt khúc dưới chân đồi. Gió chiều hiu hiu….. “lá rụng !”[12]

Trong đoạn kết tác phẩm, nhân vật Lan đã trải qua những cuộc dậy sóng trong tâm bởi lực hấp dẫn tự nhiên của ái tình, nhưng Lan đã vượt qua và trụ lại được, vẫn là người nữ tu giả trai đáng kính với tâm hồn trong sáng không tỳ vết, mặc dù trong tâm thức của Lan phiền não vẫn còn, duyên nghiệp ái tình nhiều đời nhiều kiếp huân tập không thể một sớm một chiều có thể rũ sạch, nhưng Lan đã thật sự có được một tâm thái an lành sau cơn dông bão, và tiếp tục dấn thân trên con đường xuất gia thoát tục tìm về Niết-bàn giải thoát.

C. Kết luận

 “Hồn bướm mơ tiên” là tác phẩm đầu tay, nhưng trình độ mô tả tâm lý nhân vật của Khái Hưng lại tỏ ra hết sức tài tình, thâm thúy và tế nhị như chính bản thân tác giả là người trong cuộc, qua sự phân tích ý nghĩa từ “lá rụng” như trên, chúng ta thấy được tác giả không chỉ mượn hình ảnh “lá rụng” để nói lên sự “luân hồi sinh tử” theo vòng quay sinh học của một chiếc lá để ám chỉ đời sống con người trong vòng xoáy luân hồi bất tận. Hơn nữa, qua điểm nhấn lặp lại ngôn ngữ này, nhằm gây sự chú ý cho độc giả thấy được việc tu hành của những tu sĩ Phật giáo không chỉ là những chuyện đơn giản chúng ta thường thấy hằng ngày như: thức khuya, dậy sớm, lễ Phật, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật, tọa thiền hay chấp tác v.v… mà còn phải trải qua những chặng đường đầy cam go gian khổ để thuần hóa tâm thức, không ngừng tu tập và hành trì để chiến thắng chính mình, quán chiếu nhận rõ được nguyên nhân của các nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống đều xuất phát từ tham dục và ái tình, nhận rõ sự vô thường, vô ngã của vạn vật và nhân sinh, thấy sự ràng buộc và sự khổ của ngũ dục thế gian mà hướng đến đời sống giải thoát.

Trong tiến trình hướng thượng của đời sống tâm linh, người tu sĩ phải luôn đấu tranh với nội tâm, với tư tưởng để hoàn thiện bản thân, có nhiều lúc vô cùng cam go và quyết liệt, vì vậy mà có nhiều người không thể vượt qua, nên để cuộc đời tiếp tục trôi lăn trong luân hồi sinh tử, chỉ khi nào hành giả đạt đến sự tự tại ung dung bất động của tâm thức, mới có đủ khả năng cảm hóa người khác, giúp cho mình và người vượt thoát nổi khổ niềm đau của kiếp nhân sinh.

Câu chuyện tình yêu trong sáng và cao thượng mang đậm tính nhân văn và trữ tình của Lan và Ngọc trong tác phẩm “Hồn bướm mơ tiên” đã giúp cho tác phẩm này được xếp vào một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam nói chung và văn học Phật giáo Việt Nam thời cận hiện đại nói riêng .


Tham khảo & chú thích

[1] Tự Lực văn đoàn là một tổ chức do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) khởi xướng và bắt đầu hình thành vào cuối năm 1932, chính thức tuyên bố thành lập vào tháng 3 năm 1934. Gồm 7 người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu.

[2] Ivan Sergeyevich Turgenev (1818 – 1883) người Nga.

[3] Khái Hưng, Hồn Bướm Mơ Tiên; Hà Nội, Nxb văn học, 2009, tr. 95

[4] Sđd… tr. 95

[5] Sđd… tr. 95

[6] Sđd… tr. 95-96

[7] Sđd… tr. 98

[8] Sđd… tr. 100

[9] Sđd… tr. 101

[10] Sđd… tr. 8.

[11] Thích Minh Châu (dịch), Kinh Pháp Cú, kệ số 103; Nxb Tôn Giáo, TP.HCM, 2006, tr. 33.

[12] Khái Hưng, Hồn Bướm Mơ Tiên; Nxb Văn Học, Hà Nội, 2009, tr. 103.

Nghiên Cứu